Saturday, February 8, 2014

Tiếng Việt... Cộng


Tiếng Việt... Cộng

 photo pad__.jpg Nói đến tội ác của cộng sản Việt Nam, ai ai cũng liên tưởng đến những thiệt hại về sinh mạng, tài sản và nhân quyền do chúng gây ra. Thật ra, tội ác của chúng còn to lớn và tày trời hơn nhiều, khi chúng đầu độc cả thế hệ bằng chủ nghĩa ngoại lai và làm thui chột di sản văn hóa truyền thống của dân tộc, trong đó có ngôn ngữ Việt.

Có quan niệm cho rằng: chữ nào cũng là chữ Việt, làm gì có ngôn ngữ riêng của cộng sản? Cũng có ý kiến, vì phải "nói cho người dân trong nước nghe", nên phải sử dụng loại ngôn ngữ đó.
Đành rằng, cũng là tiếng Việt, nhưng mỗi nhóm người có chung lý tưởng, chung hoạt động, chung hoàn cảnh… sẽ có chung một số thuật ngữ riêng, mà chỉ có họ với họ mới hiểu nhau.

Nếu có loại ngôn ngữ đặc thù của tôn giáo, nghe êm tai, thì cũng có loại ngôn ngữ, đặc biệt là trong giới giang hồ, giới hoạt động bất hợp pháp hoặc giới phải hoạt động bí mật, rất khó nghe hoặc người ngoài nghe không hiểu. Đây là trường hợp, tạm gọi là ngôn ngữ Xã Hội Chủ Nghĩa.

Nếu chịu khó tra cứu tiểu sử các lãnh đạo của Đảng từ ông Hồ trở xuống, chúng ta sẽ thấy thành tích vào tù ra khám, trong bưng trong biền, trong hang (Bắc Pó) trong hầm (Củ Chi) của họ, nhiều hơn học vị, nếu không muốn nói phần đông chúng là dân ít học, thiếu văn hóa. Cho nên khi kết hợp nhau thành Đảng, họ cố ý dùng những từ ngữ do họ sáng tác ra, vừa lập dị, vừa thiếu tri thức, vừa không trong sáng và chuẩn xác, nhưng phù hợp với bản chất không trung thực và kém hiểu biết của họ.

1 - Lập dị: Họ cố ý dùng nhiều từ ngữ khác với ta, từ cách viết đến cách nói. Hãy xem phóng ảnh Bản Di Chúc Ô. Hồ, để thấy lối viết lập dị. Ông ta dùng chữ F thay thế Ph, chữ J thay Gi…. Sau ngày chiếm trọn miền Nam, chúng sửa đổi lối viết chữ Việt, bằng tập hợp những nét thẳng như cây que.

- Dùng chữ khác đi: như
“tiêm phòng” (chích ngừa),
"cửa hàng bách hóa tổng hợp" (tiệm tạp hóa),
"nhân dân" (đồng bào, người dân),
"sự cố" (trở ngại, trục trặc),
"hoành tráng" (nguy nga),
"nhất trí" (đồng ý, đồng tình),
"dạ dày" (bao tử), nên tránh dùng nhiều Hán Việt nếu ta có chữ thuần Việt tươwng đương
"sơ tán" (di tản),
"cứu hộ" (cứu cấp),
"neo đơn" (đơn chiếc),
"tư vấn"(cố vấn),
"đánh võng" (đi vòng),
"thông tin" (tin tức), thông báo tin tức và tin tức bị VC 'đóng thùng' thành một
"máy tính" (máy điện toán)
"máy vi tính"(máy điện toán) ["vi" là cực kỳ nhỏ, mà mắt người không thể thấy],
"căn hộ" (căn nhà)
"hộ dân" (nhà dân)
"hộ khẩu" (miệng ăn, hay sổ gia đình, hoặc giấy tờ tùy thân)
"hộ chiếu" (sổ thông hành, hay giấy thông hành)
"phản ánh" (phản ảnh), (một số cán cộng phát âm dấu hỏi thành dấu sắc, nghe thằng ngọng nói sai, thằng ngu cũng lập lại cái sai, cả nước nói sai, bắt người Việt hải ngoại cũng nói ngọng luôn.
đấy cái chuông. Thằng ngọng nói: "ấy ái uông" thằng ngu đeo cây súng aka nói theo: "ấy ái uông" cả đám người nhìn khẩu súng của thằng ngu rồi đồng thanh hô: "ấy ái uông"...
40 năm sau, một chính thể mới lên thay, bèn sửa lại: "đấy cái chuông".
"tờ rơi" (truyền đơn)….

- Dùng đảo ngữ trong chữ kép: như
“cạnh khía” thay cho 'khía cạnh',
“đảm bảo” thay cho 'bảo đảm',
“triển khai” thay cho 'khai triển',
“lễ tang” thay cho 'tang lễ'… Một vài đảo ngữ có thể chấp nhận được nhưng phải biết dùng danh từ hay trạng từ.
"giản đơn" thay cho 'Đơn giản'
"phụ sản" thay cho 'Sản phụ'
"khoa sản" thay cho 'Sản khoa'
"đồ họa" thay cho 'họa đồ'
"dầu dãi" thay cho 'dầu dãi'

- Thay một chữ trong các chữ kép: như
“nổi cộm” thay cho 'nổi bật',
“hổ trợ” thay “'yễm trợ',
“liên hệ” thay 'liên lạc',
“chất lượng” thay 'phẩm chất',
“bộ đội” thay 'quân đội',
“chiến sĩ” thay 'binh sĩ',
"biểu diễn” thay 'trình diễn',
“diễu hành” thay 'diễn hành',
“(giờ) tan tầm” thay cho '(giờ) tan ca, tan sở, tan việc',
“bứt xúc” thay cho 'bứt rứt',
“đặc thù” thay cho 'đặc biệt' hoặc 'đặc tính',
"cá biệt" thay cho 'riêng biệt' 'cá nhân'
“khốn khó” thay cho 'khốn khổ',
“thiếu đói” thay cho 'ốm đói', 'thiếu ăn'….Ghép chữ bừa bãi thành tối nghĩa

- Đổi chữ Hán-Việt ra chữ Nôm và ngược lại: như
"hỏa tiễn" đổi thành (tên lửa),
"toàn dân" đổi thành (cả nước),
"quốc nội, quốc ngoại" đổi thành (trong nước, ngoài nước),
"ưu điểm, khuyết điểm" đổi thành (mặt mạnh, mặt yếu)...
"Nhanh chóng" đổi thành (khẩn trương),
"suy nghĩ linh tinh thành" đổi thành “tư duy trừu tượng”….

- Sáng tác nhiều từ ngữ quái dị: như
"văn phòng con" (túi đựng hồ sơ),
"đài bán dẫn" (radio),
"không người lái" (tự động),
"xáng trục vớt cứu hộ" (tàu cứu các tàu lâm nạn, cứu cấp bờ biển…)

- Công thức hoặc rập khuôn trong ngôn ngữ sinh hoạt, lặp đi lặp lại các khẩu hiệu: như
“báo cáo” (mở đầu),
“nhìn chung, nói chung",
“mặt mạnh, mặt yếu”…
Một dạo, các em học sinh phổ thông cấp 1 (Tiểu Học), được dạy “Tập làm văn” theo công thức:
“Nhà em có nuôi một (con chó, con mèo, con gà, con vịt…)“
Kết quả, có em học sinh đã vận dụng công thức vào việc tả “Ông ngoại” bằng câu nhập đề:
“Nhà em có nuôi một Ông ngoại”!!!…

- Nói rút gọn: như
Yêu cầu hoặc cho phép người khác lên tiếng hay phát biểu bằng câu mệnh lệnh:
”Phát đi!”; (thay vì nói - xin phát biểu ý kiến)
“cực quý” (cực kỳ quý giá),
"bệnh tiêu chảy cấp" (bệnh tiêu chảy cấp tính)… "khủng" (khủng khiếp)
"khủng" (kinh khủng)
hàng "độc" (hàng (độc đáo)
hàng "độc" (hàng 'độc hại')

2- Thiếu tri thức: Dùng sai văn phạm, sai ngữ pháp, cú pháp.

- Dùng sai ý nghĩa, sai tình huống: như chữ
“vô tư” [cứ ăn vô tư!!!], (thay vì 'xin cứ ăn tự nhiên')
”khả năng” [trời có khả năng mưa!!!] [thay vì 'trời có thể mưa!']

- Kém văn hóa:
"khó có khả năng nâng cao" [thay vì nói 'khó có khả năng lãnh đạo'].

- Dịch nôm:
Quốc gia là (nhà nước)
Nhưng khi sử dụng lại mang ý nghĩa khác, như trong câu:
“Nhà nước và nhân dân cùng làm”, "nhà nước" ở đây ám chỉ 'chính phủ'.

- Dung tục, kém văn hóa: như
“xưởng đẻ”,
“bộ phận bên dưới”
… [Đồng chí làm ở bộ phận nào? Báo cáo anh, em ở bộ phận bên dưới ạ!]
"nổi cộm lên"
[… còn "nổi cộm lên" một số mặt tồn tại, rơi vào ai, người đó nắm!!!]
"rà soát"
[… "rà soát" những phần khả nghi
* Nên nói "kiểm soát" những phần khả nghi...
"phần mền, phần cứng"
[… Phần cứng của tôi bị hư]
* Nên nói "nhu liệu" = (software), và "cương liệu" = (hardware).
- Phần cương liệu tôi bị hư
"đầu ra", "đầu vào" (thô tục)
* nên nói là "nhập lượng" và "xuất lượng" cho input output

- Ngô nghê: như
“Quầy thịt tươi sống Thanh niên”.
“Cửa hàng chất đốt Phụ nữ”,
“lính thủy đánh bộ” (thủy quân lục chiến) [sao không diễn nôm luôn là lính nước đánh bộ?],
“nhà văn nữ” [sao không là nhà văn gái?],
“Ô tô con” [Ô tô mẹ, ô tô cha đâu?].

- Gây ngộ nhận: như
gọi “hỏa tiển” là 'tên lửa', có thể hiểu lầm là mũi tên (người xưa hay mọi da đỏ thường sử dụng) có mồi lửa và dùng cung để bắn cháy thành trì hay lều trại của địch quân.
[“Nhà nước” khác với “nhà sàn, nhà gạch, nhà ngói, nhà lá, nhà cầu, nhà vệ sinh …ra sao?].

- Trở ngại cho việc thống kê: như trong Bảng thống kê, ghi:
“5 trực thăng” gọn hơn “5 máy bay lên thẳng”.

- Điệp ngữ: như nói
- “máy bay lên thẳng bay lên thẳng”, vừa khó hiểu vừa khó nghe, thay vì nói “trực thăng bay lên thẳng” (người ta hiểu ngay chiếc trực thăng không bay lên xéo)
- “Đảng Cộng Sản đang xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa với tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội” (trong một câu có tới ba chữ xã hội).

3 - Thiếu trong sáng: Lập lờ, mơ hồ, không cụ thể, thiếu chuẩn xác: Ai hiểu sao cũng được. Giải thích theo kiểu nào cũng xong. Đây là kỹ xảo trong cách dùng chữ, nhằm mục đích ngụy biện cho những ý đồ, hành động hay việc làm thiếu thành thật, không minh bạch, quỷ quyệt, độc ác và tàn nhẫn; được ngụy trang bằng câu, chữ hoa mỹ, vói mục đích là “phục vụ theo yêu cầu chính trị”.

Ví dụ khi nói: ”Học tập tốt, lao động tốt, Cách Mạng sẽ khoan hồng”!!! (Làm sao để biết là tốt? Tiêu chuẩn để đánh giá học tập hoặc lao động tốt là gì?)
Hoặc nói: “sau một năm triển khai kế hoạch nâng cấp chất lượng sản phẩm, chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định” (Nhất dịnh là gì? Bao nhiêu phần trăm?).

Như trong câu: “Nhờ sự chỉ đạo kịp thời của Trên, nên cơn bão không gây hậu quả nghiêm trọng cho bộ phận đánh bắt cá vùng biển”. (Trên là ai? Cấp chức gì? Ban ngành nào? Cơ quan nào?)...
Cũng vậy, “Vấn đề tham nhũng trong cơ quan, còn chờ sự xử lý của lãnh đạo…” (Không chính xác! Ai là người có thẩm quyền?)...

Rõ ràng cộng sản Việt Nam đã cố tình tạo ra một số ngôn từ, cùng với cách sử dụng đặc dị, không tuân thủ đặc tính trong sáng của tiếng Việt, coi thường sự kế thừa di sản văn hóa dân tộc, làm mất đi tính văn chương và sự phong phú của ngôn ngữ Việt. Họ bất chấp tất cả; miễn sao phù hợp với trình độ, thành phần, bản chất và đáp ứng nhu cầu chính trị của họ là được. Đó là “cứu cánh biện minh phương tiện”, dùng mọi cách để đạt được mục đích, không loại trừ cách “thất nhân tâm”.

Không hiểu vì sao một số người Việt quốc gia chúng ta, kể cả số người tị nạn chính trị lại hay dùng thứ tiếng Việt Cộng sản ấy?
Tệ hại hơn, là còn sử dụng cả trên phương tiện truyền thông đại chúng, như sách, báo, truyền thanh, truyền hình, internet...

Người ta thường quen gọi: “Sau tháng 4 năm 75”, là “Sau ngày Giải Phóng”. Người Việt tị nạn hết sức kỵ hai chữ 'Giải Phóng', bởi vì, sau khi chiếm miền Nam, bọn Cộng Sản tự cho là đã giải phóng người dân miền Nam, giải phóng dân tộc.

Thực ra, hai chữ giải phóng theo ý nghĩa là làm thay đổi cái xấu thành cái tốt, chúng ta chứng minh được “Ai đã giải phóng ai”? Không tự ti, mà nên tự hào, chúng ta có cái may được soi rọi bằng ánh sáng văn minh, được hít thở bầu không khí tự do, dân chủ và tiến bộ. Nhờ vậy, chúng ta trưởng thành, có cơ hội, hoàn cảnh và sức mạnh, để giải phóng đồng bào trong nước.

Người Việt hải ngoại chẳng những ta đã giải phóng cho dân chúng miền Bắc, khỏi nạn bị Cộng Sản bịt miệng, bịt mắt, bịt tai, đè dầu, cởi cổ; mà còn giải phóng cho một số dân miền Nam lầm đường lạc lối “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”, (còn được gọi là “Mặt trận giải phóng miền Nam”, là thành phần thứ ba), tìm về với đường ngay nẻo chánh.

Thậm chí, chúng ta còn giải phóng một số đảng viên, làm cho họ sáng mắt sáng lòng, khi nhìn rõ được bộ mặt thật của cái gọi là “Chủ thuyết Mác-Lê Nin bách chiến bách thắng”, nhận rõ được bộ mặt thật của ông Hồ với cái gọi là “tư tưởng ông Hồ”, thấy rõ con đường “xã hội chủ nghĩa”, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, là con đường dẫn dắt dân tộc trở về thế kỷ 19, với đầy đủ sự nghèo nàn, lạc hậu và chậm tiến.

Cộng sản chiếm được miền Nam, nhưng không chiếm được trái tim của người dân miền Nam.
Cộng sản chiếm được đất đai, tài sản của người miền Nam, nhưng không chiếm được “con người” của người dân miền Nam.

Cộng sản dùng “vô sản chuyên chính” tức là ngu dốt, bạo lực cách mạng, nôm na là vũ lực, để gọi là “giải phóng” chúng ta. Chúng ta dùng trái tim, khối óc và sự ngời sáng của chính nghĩa để giải phóng lại đồng bào ta đang lầm than dưới ách thống trị của họ. Chúng ta đã: “Lấy chí nhân mà thay cường bạo, đem đại nghĩa để thắng hung tàn” mà giải phóng miền bắc và người dân trong nước đang bị cộng sản thống trị, theo đúng lời dạy của Nguyễn Trãi.

Cụ thể chúng ta đã giải phóng cho người dân ta những gì nào?

Trước mắt, hình tượng ông Hồ đã bị vất bỏ.
Người ta đã “liệng cống” những bức ảnh “lộng kiếng”, bị buộc phải tôn thờ trong mỗi nhà.

Chúng ta cũng đã triệt tiêu, bằng cách không hưởng ứng chương trình cải cách giáo dục qua lối viết chữ hình que, nét sổ của Việt cộng. Chúng ta cương quyết duy trì và phát triển di sản văn hóa dân tộc đầy nhân bản và đã tiêu diệt hẳn loại văn hóa ngoại lai, loại văn nghệ đỏ, nhuộm đầy máu, gây thù và bắn giết. Bằng chứng là nhũng bài hát, những tác phẩm ngợi ca Đảng và chế độ trước kia, dần dần biến mất. Gần đây, chúng ta cũng đã giải phóng cho đồng bào ta thoát ly khỏi nỗi “sợ hãi”; nhờ đó, nhân dân ta nay đã đứng lên.

Vậy thì, tại sao chúng ta cứ phải nuôi dưỡng tật xấu, bằng thói quen xài chữ Việt XHCN? Chần chờ gì nữa, sao không giải phóng luôn loại ngôn ngữ nầy?

Có trớ trêu chăng, khi ta vẫn thích dùng loại ngôn ngữ của cái Đảng, mà ta mong muốn giải thể nó? Ai là người dám phát biểu ngôn ngữ của người Việt quốc gia gây sự khó hiểu và không được sự biểu đồng tình của quốc dân đồng bào, quốc nội và quốc ngoại?

Đất nước còn mà còn cộng sản thì đất nước sẽ tiêu tan. Tiếng ta còn mà còn ngôn ngữ kiểu cộng sản thì 4.000 năm văn hiến của dân Việt chắc không còn ./.

Nguyen Sang

1 comment:

  1. Ai cần ai giải phóng?

    Việt cộng dùng cây súng Aka thống trị đất nước Việt Nam, bắt dân phải dùng tiếng dung tục, ngây ngô, sai nghĩa, hoặc thiếu trong sáng và không minh bạch, lập lờ, mơ hồ, không cụ thể, thiếu chuẩn xác; ai hiểu sao cũng được. Giải thích theo kiểu nào cũng xong của chúng.

    Thứ xào ngôn làm kỹ xảo trong cách dùng chữ, nhằm mục đích ngụy biện cho những ý đồ, hành động hay việc làm thiếu minh chính. Những thứ quỷ quyệt, độc ác và tàn nhẫn; được ngụy trang bằng câu, chữ hoa mỹ, vói mục đích là “phục vụ theo yêu cầu chính trị”.

    Viện lý do "nói cho người dân trong nước nghe", nên phải sử dụng loại ngôn ngữ đó." và họ yêu sách các cơ quan truyền thông những đài rfa, Voa... phải dùng ngôn ngữ chuyên chính vô sản trong hang, hầm, của đạo quân đánh lén, ăn cướp và bắt người Việt hải ngoại phải nghe, phải dùng thứ ngôn ngữ đó sao?

    Hai chữ “giải phóng” mang ý nghĩa là làm thay đổi cái xấu thành cái tốt.

    Tại sao Người Việt hải ngoại lại có thể để cho cái xấu nó "giải phóng" cái tốt, và để xấu đánh ngã cái tốt của chúng ta?

    Tại sao ta không yêu cầu cơ quan truyền thông ngôn luận "giải phóng" chữ nghĩa dung tục, sai trái, lập lờ của VC thành tốt ngôn ngữ tốt hơn, hay hơn của miền nam trước kia thường dùng cho dân trong nước hiện nay nhờ?

    ReplyDelete