Thursday, February 13, 2014

Nỗi Buồn Tiếng Việt Của Người Dân Trong Nước

Ở trong nước, hiện tượng dùng chữ nghĩa kỳ cục do cộng sản Bắc Việt du nhập vào miền Nam, lai căng với nhiều từ ngữ mới chế ra rất ngô nghê và xa lạ đối với phần đông dân chúng.

Với chủ trương nôm na hóa ngôn ngữ Việt, tập đoàn cộng sản nắm quyền đã lạm dụng từ thuần Việt quá mức trở thành thô tục như: xưởng đẻ = nhà bảo sanh, nhà ỉa = nhà vệ sinh, lính thủy đánh bộ = thủy quân lục chiến v. v..., và đặt ra nhiều từ sai hẳn với nguyên nghĩa.

Ngôn ngữ thay đổi theo thời gian, theo sinh hoạt xã hội. Mỗi ngày, từ những đổi mới của đời sống, từ những ảnh hưởng văn minh của ngoại quốc mà ngôn ngữ dần dần chuyển biến. Những chữ mới được tạo ra, những chữ gắn liền với hoàn cảnh sinh hoạt xưa cũ đã quá thời, dần dần biến mất. Cứ đọc lại những áng văn thơ cách đây chừng năm mười năm trở lại, ta thấy nhiều cách nói, nhiều chữ khá xa lạ, vì không còn được dùng hằng ngày. Những thay đổi này thường làm cho ngôn ngữ trở nên sinh động hơn, giàu có hơn, tuy nhiên, trong tiếng Việt khoảng mấy chục năm gần đây đã có những thay đổi kém cỏi. Ban đầu những thay đổi này chỉ giới hạn trong phạm vi Bắc vĩ tuyến 17, nhưng từ sau ngày cộng sản toàn chiếm Việt Nam, 30 tháng 4 năm 1975, nó đã xâm nhập vào ngôn ngữ miền Nam. Rồi, đau đớn thay, lại tiếp tục xâm nhập vào tiếng Việt của người Việt ở hải ngoại. Người ta thuận theo các thay đổi xấu ấy một cách lặng lẽ, không suy nghĩ, rồi từ đó nó trở thành một phần của tiếng Việt hôm nay. Nếu những thay đổi ấy được hay và tốt thì là điều đáng mừng; nhưng than ôi! hầu hết những thay đổi ấy là những thay đổi xấu, đã không làm giầu cho ngôn ngữ dân tộc mà còn làm tiếng nước ta trở nên tối tăm.

Thế nhưng dựa vào đâu mà nói đó là những thay đổi xấu?
- Nếu sự thay đổi đưa lại một chữ Hán Việt để thay thế một chữ Hán Việt đã quen dùng, thì đây là một thay đổi xấu.
- Nếu dùng một chữ Hán Việt để thay một chữ Việt thì lại càng xấu hơn. Bởi vì nó sẽ làm cho câu nói tối đi.
- Nếu sự thay đổi từ ngữ sai với nguyên nghĩa; v à từ ngữ nghe thô tục, kỳ lạ. Văn hóa thấp, kém cỏi.
- Nếu sự thay đổi để đưa vào tiếng Việt một chữ dùng sai nghĩa, thì đây là một sự thay đổi xấu vô cùng.
Người Việt vẫn dễ nhận hiểu tiếng Việt hơn là tiếng Hán Việt, nhất là những tiếng Hán Việt này được mang vào tiếng Việt chỉ vì người Tầu ở Trung Quốc bây giờ đang dùng chữ ấy.
Sau đây, chúng tôi xin ghi lại một số từ ngữ (được tạm xếp theo vần abc) mà chế độ cộng sản Việt Nam ép dân chúng dùng (có lẽ muốn xoá sạch dấu vết của chính quyền cũ), đọc lên, nói lên sai với nguyên nghĩa, nghe thô tục, kỳ lạ và ảnh hưởng Tây phương rất nặng, khó có thể chấp nhận:

1. "Buổi đêm": 'Buổi đêm tôi có gặp đồng chí ấy'.
Từ xưa đến nay người Việt không bao giờ nói "buổi đêm" cả, chỉ nói "ban đêm", "ban ngày".
"Ban" được hiểu như là một thời gian khoảng 12 giờ, ban đêm 12 giờ cộng với ban ngày 12 giờ là 24 giờ.
Còn "buổi" thì chúng ta có "buổi sáng", "buổi trưa", "buổi chiều", "buổi tối".

Ban ngày có 12 giờ và tạm coi như có 4 buổi, như vậy mỗi buổi có 3 giờ đồng hồ. Night time, day time khác với morning; noon; afternoon; evening.
Chúng ta thường nói: 'Chờ ông ấy mất cả buổi'. Buổi ở đây là khoảng ba giờ. Câu nói khác: 'Thế là mất một buổi cày'. Buổi ở đây lại có nghĩa là mất cả một ngày công. Chế ra từ "buổi đêm" là làm hỏng tiếng Việt.

2. "Cải tạo" = transform, improve; re-education.
Họ không phân biệt "cải tạo vật chất" với "cải tạo tư tưởng", quan niệm chính trị. Nếu nói: 'Phải dùng cát để cải tạo đất', khác với 'Trung úy miền nam bị đi tù cải tạo'. Nếu muốn chữa cho đất có màu mỡ hơn nên dùng "cải tiến", "cải thiện"... Khoảng 50 năm nay từ "cải tạo" cả nước đã hiểu ngầm là ở tù rồi!

3. "Cảm giác": 'Xin anh cho biết cảm giác ra sao về hiện tượng đó'.
Những gì cảm thấy được bằng giác quan.
Giác quan có ngũ giác: xúc giác: sờ chạm; thị giác: mắt thấy; thính giác: tai nghe; vị giác: lưỡi nếm; khứu giác: mũi ngửi. Đó là các sense organs, còn cảm giác và cảm tưởng; cảm tính (feeling, khác với lý tính) dễ lầm lẫn vì đó là sensation, impression.
Dùng đúng chữ phải là: 'Xin anh cho biết cảm nghĩ, cảm tưởng, về hiện tượng đó'.

Ngoài ra impression còn có nghĩa là ấn tượng, dấu ấn. Chúng ta có thể nói: Có cảm giác ghê rợn, nhờm tởm, lạt lẽo, ấm cúng... một giác xuất phát từ não bộ, tuy cũng do từ năm giác quan vừa kể gửi tín hiệu lên óc.

4. "Cầu lông" = Badmington = Một môn thể thao nhẹ nhàng gần giống quần vợt, có giăng lưới cao, dùng vợt nhẹ và quả cầu có gắn lông vũ, đánh qua lại trên lưới. Trên thực tế, quả cầu badmington làm giả bằng nhựa không chế bằng lông gà, lông vịt nữa. Cách gọi 'cầu lông' này thô tục quá! Tại sao không gọi là cầu lông vũ hoặc bát-minh-tơn?

5. "Chất lượng": Đây là chữ đang được dùng để chỉ tính chất của một sản phẩm, một dịch vụ. Người ta dùng chữ này để dịch chữ quality của tiếng Anh. Nhưng than ôi! Lượng không phải là phẩm tính, không phải là quality. Lượng là số nhiều ít, là quantity.

Theo Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu, thì lượng là: đồ đong, các cái như cái đấu, cái hộc dùng để đong, đều gọi là lượng cả. Vậy tại sao người ta cứ nhắm mắt nhắm mũi dùng một chữ sai và dỡ như thế! Không có gì bực mình hơn khi mở một tờ báo Việt ngữ ở hải ngoại rồi phải đọc thấy chữ dùng sai này trong các bài viết, trong các mục quảng cáo thương mãi.

Muốn nói về tính tốt xấu của món đồ, phải dùng chữ 'phẩm', bởi vì phẩm tính mới là quality. Mình đã có sẵn chữ "phẩm chất" rồi, tại sao lại bỏ quên mà dùng chữ "chất lượng". Tại sao lại phải bắt chước mấy anh cán ngố, cho thêm buồn tiếng nước ta?

6. "Cuộc gặp" = to meet, run into = hội kiến, gặp mặt, gặp gỡ, buổi họp.
Nghe chữ "cuộc gặp" thấy cụt ngủn, chưa trọn nghĩa. Ý họ muốn tả một cuộc hội kiến tay đôi, một lần gặp gỡ, chưa hẳn là một hội nghị (conference). Nên dùng như thí dụ này: "Bộ trưởng Thái đã hội kiến gặp bộ trưởng Lào"...

7. "Cưới": Nhà văn Lê Minh Hà đi từ miền bắc, công tác ở Đông Đức, rồi xin tỵ nạn ở Đức, viết trong tập truyện ngắn "Trăng Góa": 'Bọn này chưa cưới.', 'chúng tôi cưới'... Đó là thói quen từ vùng cộng sản. Đây không phải là lối hành văn mới lạ, kiểu cách... mà chỉ là thói quen dùng sai từ. To marry, get married, nhưng người Việt phải nói là: 'Chúng tôi chưa làm đám cưới; bọn này cưới nhau'.

Câu này lại do một vai nữ tự thuật, lại càng sai nặng nữa. Chúng ta chỉ nói "cưới vợ", không bao giờ nói "cưới chồng" cả. Chỉ có hai trường hợp dùng được hai chữ "cưới chồng", một là cô gái có lỗi lầm nào đó, nhà gái phải bỏ tiền, chịu mọi chi phí đám cưới để lấy cho được một tấm chồng; hai là những đồng bào thiểu số, sắc dân nào còn theo chế độ mẫu hệ, cô gái cưới chồng, vì chàng rể sẽ thuộc về nhà gái. Nhà gái phải trả cho nhà trai trâu, lợn, gà, chiêng đồng, v. v... để mua rể.

8. "Đại trà" = on a large scale = cỡ lớn, quy mô lớn. Thí dụ: "đồng bào trồng cây cà phê đại trà". Tại sao không dùng như trước là "quy mô lớn"? Ngoài ra dùng chữ "đại trà" là bắt chước Trung Quốc và có thể gây hiểu lầm là "cây trà lớn".

9. "Đăng ký" = register = ghi tên, ghi danh.
Nghĩa rất đơn giản, nhưng bắt chước Trung Quốc, cố dùng Hán-Việt. Câu nói sau đây nghe kỳ lạ: 'Tôi đã đăng ký mua khoai mì ở Phường...'. Tại sao không dùng chữ "ghi danh", hoặc "ghi tên"?

"Đăng ký" là một chữ mà người cộng sản miền bắc Việt Nam dùng vì tinh thần nô lệ người Tầu của họ. Đến khi toàn chiếm lãnh thổ miền nam Việt Nam, họ đã làm cho chữ này trở nên phổ thông ở khắp nước. Trước đây, ta đã có chữ "ghi tên" (và "ghi danh") để chỉ cùng một nghĩa. Người Tầu dùng chữ "đăng ký" để dịch chữ 'register' từ tiếng Anh. Ta hãy dùng chữ "ghi tên" hay "ghi danh" cho câu nói trở nên sáng sủa, rõ nghĩa. Dùng làm chi cái chữ Hán Việt kia để cho có ý nô lệ người Tầu!.

10. "Đầu ra, đầu vào" = output, input = cái đưa ra, cái đưa vào, dòng điện cho vào máy; dữ kiện đưa vào máy điện toán. Họ còn dùng có nghĩa là vốn, hoặc thì giờ, công sức bỏ vào và kết quả của cuộc đầu tư đó. Nhưng dùng chữ "đầu ra, đầu vào" nghe thô tục (giống như từ 'bộ phận' = một phần việc, một nhóm, tổ... đã bị nhà văn Kathy Trần đốp chát, hỏi: "Bộ phận" gì? Bộ phận của đàn ông/đàn bà hả). Có thể dùng chữ "vốn đầu tư" và "kết quả sản lượng" = input, output.

11. "Giải phóng" = liberate, emancipate/free, relieve, release = giải tỏa, xả, thả, trả tự do.
Từ 'giải phóng' chỉ nên dùng cho con người, không dùng cho loài vật, đất, vườn... Họ dùng chữ giải phóng nghe không thuận tai và sai nghĩa. Thí dụ: 'Đã giải phóng (giải tỏa) xong mặt bằng để xây dựng nhà máy.../anh công an lưu thông tích cực công tác để giải phóng (giải tỏa) xe cộ.../ Em X giải phóng (thả) con chó...
Những câu sau đây mới là dùng đúng cách: 'phong trào giải phóng phụ nữ.../ Công cuộc giải phóng nô lệ'...

12. "hiển thị": 'Chỉ cần ấn nút thì mọi nhu cầu sẽ được hiển thị trên máy tính...' (appear on screen). Tại sao không nói "sẽ thấy hiện rõ trên máy".

13. "Khả năng": Chữ này tương đương với chữ ability trong tiếng Anh, và chỉ được dùng cho người, tức là với chủ từ có thể tự gây ra hành động theo chủ ý. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam người ta dùng chữ "khả năng" trong bất kỳ trường hợp nào, tạo nên những câu nói rất kỳ cục. Ví dụ, thay vì nói là 'trời hôm nay có thể mưa', thì người ta lại nói: 'trời hôm nay có khả năng mưa', nghe vừa nặng nề, vừa sai. "Có khả năng": Đây là cách sử dụng rất Tây, thí dụ: 'Hôm nay thời tiết có khả năng mưa'... chúng ta tạm chấp nhận (sao không nói giản dị là: "Hôm nay trời có thể mưa"?). Một thí dụ này khó chấp nhận: 'Học sinh X có khả năng không đạt điểm tốt nghiệp'. Có khả năng là ability; aptitude; capacity và luôn luôn dùng ở trạng thái tích cực (positive), không bao giờ dùng với trạng thái tiêu cực (negative). Những câu sau đây nghe rất chướng: 'Bệnh nhân có khả năng bị hôn mê'.../ 'Địch có khả năng bị tiêu diệt'...v. v...

14. "Khả thi" = applicable; ability to carry out = có thể thực hiện được, có thể thi hành được.
"khả thi" và "bất khả thi" cũng chịu ảnh hưởng nặng của Trung Quốc. Sao không dùng: "không thực hiện được" / "không thực hiện nổi". Ngoài ra "khả thi" sẽ đưa đến sự hiểu lầm là "có thể dự thi được".

15. "Khẩn trương": Trước năm 1975 chúng ta đã cười những người lính Việt cộng khi họ dùng chữ này (khẩn trương) thay thế chữ 'nhanh chóng'. Nhưng than ôi! Ngày nay vẫn còn những người ở Việt Nam (và cả một số người sang Mỹ sau này) vẫn vô tình làm thoái hóa tiếng Việt bằng cách bỏ chữ 'nhanh chóng' để dùng chữ 'khẩn trương'. Đáng lẽ phải nói là: 'làm nhanh lên' thì người ta nói là: 'làm khẩn trương lên'.

17. "Khẳng định". Thói quen dùng động từ này bị lạm dụng: 'Diễn viên X đã khẳng định được tài năng. Đồng chí A. khẳng định ở vị trí giám đốc'.
Khẳng định = xác định, xác nhận = affirm và confirm, có nghĩa gần giống nhau. Thí dụ: 'Ngay lúc tôi phát biểu xong thì Quản Giáo liền sửa sai và bắt tôi phải xác định lại tư tưởng'. Ngoài nghĩa theo luật pháp có nghĩa là 'phê chuẩn', 'chuẩn y'. Tuy nhiên âm thanh của chữ 'khẳng định' nghe nặng nề.

18. "Kích cầu" = to level the bridge/ needing to stimulate = nhu cầu để kích thích/nâng cao cái cầu lên. Cả hai nghĩa đều hàm ý là chất xúc tác, kích thích tố khiến sự việc tiến nhanh hơn. Cách dùng hơi lạ. Bên công chánh có lối dùng những con đội để nâng cao cái cầu giao thông lên. Tại sao không dùng chữ "kích thích tố", hoặc "chất xúc tác" như trước?

19. "Làm rõ" = clarify = cần làm rõ vì có sự mù mờ, chưa minh bạch, ngoài ra còn có nghĩa gần như nói lại cho rõ, đính chính. Đúng nghĩa phải là điều tra = investigate.
'Công an Phường 16 đang làm rõ vụ việc này'. Cách sử dụng từ "làm rõ" cũng giống như "làm việc" (với công an). Họ cố tránh những động từ như "điều tra", "khai báo", "trình diện" v. v... nhằm xóa bớt sự ghê sợ, hãi hùng của người dân khi phải tiếp xúc với công an cộng sản.

20. "Liên hệ": Chữ "liên hệ" dịch sang tiếng Anh là 'to relate to'...chứ không phải là 'to communicate to'... Cũng từ miền Bắc, chữ này lan khắp nước và nay cũng tràn ra hải ngoại. Liên hệ là có chung với nhau một nguồn gốc, một đặc tính. Người cộng sản Việt Nam dùng chữ liên hệ để tỏ ý nói chuyện, đàm thoại. Tại sao không dùng chữ Việt là 'nói chuyện' cho đúng và giản dị. Thí dụ: 'Xin dùng số điện thoại này để được nói chuyện trực tiếp với...' hoặc là 'Xin liên lạc số điện thoại này với công ty...' Mà người ta lại nói: 'Trung tâm du lịch... liên hệ: Điện Thoại 55-5555'...thật là ngây ngô!

21. "Ngài": 'Bộ trưởng ngoại giao ta đã gặp Ngài Brown thị trưởng thành phố San Francisco.' Ngài là Sir, một tước vị của Hoàng Gia nước Anh ban cho một nhân vật nào đó. Sir có thể dịch ra là Hiệp Sĩ, cũng có thể là Knight = Hầu Tước xuống đến tòng Nam Tước = Baronet.
Theo nghĩa thứ nhì "ngài" là một từ dùng để xưng hô và là một từ tôn xưng như cụ, ông bà, bác, chú.

Trong cả hai trường hợp câu trên đều sai. Ông W. Brown chưa bao giờ được Nữ Hoàng Anh trao tặng tước hiệu Sir. Theo lối xưng hô chính thức ngoại giao của Mỹ và theo lối Việt Nam, không nên gọi ông W. Brown là Ngài viết hoa. Theo lối xưng hô chính thức của Mỹ, trên văn thư phải là:
The Honorable ...W. Brown
Mayor of San Francisco
Hình thức chào hỏi:
Sir:
Dear Mayor Brown

Như thế, gọi một ông thị trưởng Mỹ là Ngài đã hoàn toàn sai. Qua sách báo từ sau 1954, miền bắc dùng sai và lạm dụng từ Ngài. Cách dùng thứ nhất để tôn xưng quávới giới chức ngoại quốc, thứ nhì là để chế diễu, khôi hài các nhân vật trong khối tự do dân chủ, và ở miền nam, thí dụ: Ngài đại úy, Ngài thiếu tá... ngay cả có dạo họ đã gọi Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là Nguyên Soái!

Từ sau 1954, trong miền nam gần như không bao giờ chúng ta thấy xuất hiện từ Ngài! Chế độ cộng sản tự nhận là vô sản, đánh phong kiến, diệt quan lại, nhưng nay họ lại quan lại, phong kiến hơn ai hết. Chứng cớ qua từ tôn xưng ngài và họ còn tự nhận và gọi các cán bộ và nhân vật quan trọng ngoại quốc là Quan chức. Quan chức = officials, có thể dịch là "viên chức", hay "giới chức ngoại giao", "nhân viên chính phủ", "phái đoàn ngoại giao" v. v...)

22. "Nghệ nhân": Ta vốn gọi những người này là 'nghệ sĩ'. Mặc dù đây cũng là tiếng Hán Việt, nhưng người Tầu không có chữ "nghệ sĩ", họ dùng chữ "nghệ nhân". Có những người tưởng rằng chữ 'nghệ nhân' cao hơn chữ 'nghệ sĩ', họ đâu biết rằng nghĩa cũng như vậy, mà sở dĩ người cộng sản Việt Nam dùng chữ 'nghệ nhân' là vì tinh thần nô lệ Trung Quốc.

23. "Quản lý" = management = quản trị, chịu trách nhiệm. Bắt chước từ Trung Quốc và bị lạm dụng. Nói: 'Anh X. quản lý một xí nghiệp' thì được, nhưng câu sau nhái lại khôi hài: 'Anh sẽ xây dựng với đồng chí gái, và đồng chí gái sẽ quản lý đời anh'...
"Quản lý" chỉ dùng để trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, hành chánh. "Quản lý" không dùng cho lĩnh vực tình cảm được, tình cảm không phải là một lô hàng, không phải là một xí nghiệp.

24. "Sơ hữu": 'Mối quan hệ Việt - Mỹ chỉ là sơ hữu.' Sơ hữu + bạn mới quen, mới làm bạn (new friendship). Tại sao không nói: 'Mối quan hệ Việt - Mỹ chỉ là bạn mới quen'...?

25. "Sự cố": trở ngại, trục trặc, bị hỏng "sự cố kỹ thuật". Tại sao không dùng chữ vừa giản dị vừa phổ thông trước đây như là chữ 'hỏng'? Nói: 'Xe tôi bị hỏng' rõ ràng mà giản dị hơn là nói 'xe tôi có sự cố'. Hay là 'Máy điện toán của tôi bị trục trặc kỹ thuật' thay vì 'Máy điện toán của tôi có sự cố', và 'Công việc ấy bị trở ngại' đúng hơn 'Công việc ấy có sự cố'.

26. "Tai tệ nạn": 'Tai tệ nạn xảy ra khá nhiều trên đoạn đường này'. Tai nạn lưu thông + tệ nạn xã hội (traffic accident +social crime/evil), cách ghép nối kỳ lạ.

27. "Thành viên" = member = theo cách nói và viết thông thường là một người trong một tổ chức, hội đoàn, nhóm nào đó; không thể dùng chữ "thành viên" cho một cá nhân trong gia đình được. Thí dụ sau đây nghe rất Tây: 'Các thành viên trong hộ đó có cha, mẹ và hai con/bé Năm là một đứa con trong gia đình...'. Thí dụ sau đây mới là dùng đúng: 'Mỹ là thành viên trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc có quyền phủ quyết'...

28. "Tham quan": Đi thăm, đi xem thì nói là đi thăm, đi xem tại sao lại phải dùng cái chữ này của người Tầu? Sao không nói là 'Tôi đi Nha Trang chơi', 'Tôi đi thăm lăng Minh Mạng', mà lại phải nói là 'Tôi đi tham quan Nha Trang', 'tôi đi tham quan lăng Minh Mạng'.

29. "Tháng một, tháng mười hai": Hiện nay ở Việt Nam trong trường học họ không dạy học sinh "tháng giêng" và 'tháng chạp" nữa. Tháng giêng và tháng chạp là cách gọi rất Việt Nam. Lịch in ở Việt Nam ghi tháng một là tháng giêng cũ. Từ xưa đến nay chúng ta vẫn gọi tháng đầu năm âm lịch là "tháng giêng", tháng thứ 11 là "tháng (mười) một" và tháng cuối năm là "tháng chạp". Gọi là tháng chạp là do tháng cuối năm âm lịch có nhiều lễ, trong đó có lễ chạp. Ca dao đã có câu: "Tháng chạp là tiết trồng khoai.
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà".

Tháng thứ 11 âm lịch gọi là "tháng một" dễ lầm lẫn với tháng giêng, nên đã tạm bỏ. Nhưng gọi tháng January dương lịch là "tháng một" nghe không ổn, phải gọi là tháng giêng. Còn tháng December gọi là tháng mười hai, không có vấn đề. Nhưng họ có dạy cho học sinh tiểu học hiểu rằng - muốn chỉ tháng thứ 12 trong năm âm lịch bắt buộc phải gọi là tháng chạp không?

30. "Thống nhất": 'tôi đã xuống huyện thống nhất đồng chí X. ...' Câu này mắc hai lỗi. Thứ nhất thiếu từ liên tự 'với'; thứ nhì là thống nhất điều gì, chuyện gì. Thống nhất (unify; unified).
Trường hợp này phải nói là "đồng ý" với, "nhất trí" với. 'Tôi đã xuống huyện nhất trí với...'.

31. "Thứ nhất, thứ nhì": Từ xưa theo cách đếm số, chúng ta có con số thường (cardinal number) như 1-2-3-4; và số thứ tự (ordinal number) thứ nhất, thứ nhì... Hiện nay họ dường như không ưa dùng số thứ tự và gọi 'thứ nhì' là 'thứ hai'. Chỉ second; deuxième là "thứ hai", dễ lầm lẫn với "thứ hai" = Monday. Trên sách báo chỉ thấy viết: một là; hai là. Như thế chỉ riêng nước Việt Nam không cần đến số thứ tự (ordinal number) nữa sao?

32. "Tương thích": 'Giá cả đó tương thích với chất lượng mặt hàng...'. (Tương đương = equal, thích hợp= appropriated). Cách ghép nối gượng gạo.

33. "tranh thủ": Thay vì dùng một chữ vừa rõ ràng vừa giản dị là chữ 'cố gắng', cái tệ "sính" dùng chữ Hán Việt của cộng sản Việt Nam, người ta lại dùng một chữ vừa nặng nề vừa tối nghĩa là chữ 'tranh thủ'. Thay vì nói: 'anh hãy cố gắng làm cho xong việc này trước khi về', thì người ta lại nói: 'anh hãy tranh thủ làm cho xong việc này trước khi về'.

34. "Trao đổi" = exchange= theo nghĩa của họ là nói chuyện, đối thoại, hội thoại. Cách dùng chịu ảnh hưởng nặng Tây phương. Trao đổi, theo đúng nghĩa là đổi chác 'ông đưa cái giò, bà thò chai rượu'.
Trao đổi chỉ áp dụng cho hàng hóa (giao thương) hay con người. Thí dụ: 'Hai nước trao đổi lãnh sự, buôn bán, mậu dịch'. Kiều và Kim Trọng đã trao đổi quà tặng tình yêu cho nhau. Không bao giờ trao đổi lại có nghĩa là nói chuyện, đối thoại. Thí dụ sau đây cho thấy cách dùng sai lạc: 'Anh Phillippe Jamet đang trao đổi với một bé gái Việt Nam...'. Trao đổi gì? Quà tặng gì? Trao đổi không bao giờ có nghĩa là converse, talk to..., chỉ là exchange thôi.

35. "Trọng thị": Coi trọng (show consideration for/attach important to) trong từ điển ghi là một từ cũ, không hiểu sao lại được dùng trở lại. Thí dụ: 'Chúng ta phải trọng thị yếu tố đó'. Cứ nôm na nói: 'Chúng ta phải coi trọng yếu tố đó' là đủ và giản dị rồi.

36. "Trúng thưởng" = reward, award. Thế nào gọi là thưởng? Thưởng là thưởng cho những cá nhân hay tập thể có công, tài giỏi, đạt thành tích cao... Thưởng đi đôi với phạt. Vậy không thể nói: 'Mua hàng sẽ được trúng thưởng.../ Anh X. trúng thưởng xổ số thành phố A. được 50 triệu. 'Đó chỉ là quà tặng, biếu không, không phải là thưởng, và chỉ là 'trúng xổ số' chứ không lãnh thưởng. Xổ số là hình thức đánh bạc, nên gọi tránh đi là trúng thưởng (thật là mâu thuẫn, trong khi đó họ bỏ tiền ra mua máy đánh bạc đặt trong các khách sạn lớn).

37. "Trúng tuyển" (nghĩa vụ quân sự) = select, choose/recruit. Chúng ta vẫn nói và viết "tuyển sinh", "tuyển quân", "tuyển mộ", "tuyển dụng"... Nhưng nói: "trúng tuyển nghĩa vụ" thật là khôi hài. Nghĩa vụ quân sự là thi hành quân dịch, đến tuổi phải đi, bắt buộc phải đi, không có chuyện trúng tuyển hay không được tuyển (nên dùng theo nghĩa xấu chỉ có dân nghèo, không có tiền đút lót và không phải là con cán bộ cao cấp, mới bị trúng tuyển).

38. "Tư liệu": Trước đây ta vốn dùng chữ "tài liệu", rồi để làm cho khác miền nam, người miền bắc dùng chữ 'tư liệu' trong ý: 'tài liệu riêng của người viết'. Bây giờ những người viết ở hải ngoại cũng dùng chữ này mà bỏ chữ 'tài liệu'mặc dù nhiều khi tài liệu sử dụng lại là tài liệu trong thư viện chứ chẳng phải là tài liệu riêng của ông ta.

39. "Vị trí" = place/position/job, task =chỗ đứng, vị thế/nơi chốn/việc làm, trách vụ.
Họ dùng chữ "vị trí" cho luôn cả nghĩa là "trách vụ", "việc làm". Câu nói sau đây là sai: 'Anh A. đã thay anh B. công tác ở vị trí kế toán trưởng'. Nên nói: 'Anh A. đã thay anh B. công tác ở trách vụ kế toán trưởng' mới đúng. Thường thường chúng ta hay dùng: 'Tiểu đội A. đã chiếm được một vị trí trên cao, từ đó có thể ngăn chận được trung đội địch tiến lên đồi'.

40. "Vùng sâu xa": Vùng rừng núi, đầm lầy (highland = swamp area). Đây là cách sử dụng chữ trốn tránh thực tế. Vùng ở trong sâu hiểu là vùng hẻo lánh, sình lầy và vùng xa tức là vùng trên cao, ở xa. Đây là cách dùng mị dân, cũng như để dễ bề đẩy giáo viên, kỹ sư, bác sĩ không phe đảng, không là con cháu cán bộ đến phục vụ nơi khỉ ho cò gáy. Ngoài ra 'sâu xa' còn gây hiểu lầm với 'lòng cảm ơn, biết ơn sâu xa' đã quen dùng trước đây.

41. "Xuất khẩu", "Cửa khẩu": Người Tầu dùng chữ 'khẩu' người Việt dùng chữ 'cảng'. Cho nên ta nói "xuất cảng", "nhập cảng", chứ không phải như Việt cộng (csvn) nhắm mắt theo Tầu gọi là "xuất khẩu", "nhập khẩu". Bởi vì ta thường nói phi trường Tân Sơn Nhất, phi cảng Tân Sơn Nhất, hải cảng Hải Phòng, giang cảng Sài Gòn, thương cảng Sài Gòn. Chứ không ai nói phi khẩu Tân Sơn Nhất, hải khẩu Hải Phòng, thương khẩu Sài Gòn trong tiếng Việt. Khi viết tin liên quan đến Việt Nam, ta đọc bản tin của họ để lấy dữ kiện, rồi khi viết lại bản tin đăng báo hay đọc trên đài phát thanh tại sao không chuyển ngữ (xấu, sai) của họ sang chữ (tốt, đúng) của mình, mà lại cứ sao, chép y boong?

42. "Bản thân" = self, oneself. 'Bản thân tôi cũng không tránh khỏi giao động' / 'Bản thân sự kiện đó còn nhiều tồn tại'. Người ta bỏ quên từ 'tự' và 'chính'; đúng ra là: 'Chính tôi cũng không tránh khỏi dao động'...và 'tự thân sự kiện đó'.

"Chủ yếu" = main, principal. Họ dùng từ này bừa bãi, sai lệch: 'Thức ăn chủ yếu của đồng bào vùng này là ngô và khoai' / 'Chúng tôi lấy gạo làm chủ yếu để qui thành giá trị trao đổi'. Người ta bỏ quên từ 'chính' được dùng từ xưa tới nay, thí dụ: 'Thức ăn chính của đồng bào...'

Đây chỉ là một vài ví dụ để nói chơi thôi, chứ cứ theo cái đà này thì chẳng mấy chốc mà người Việt nói tiếng Tầu luôn mất!

Trước đây Phạm Quỳnh từng nói: 'Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn', bây giờ truyện Kiều vẫn còn mà cả tiếng ta lẫn nước ta lại đang đi dần xuống hố sâu Bắc Thuộc. Tự hào thay Việt Nam!!!

Chu Đậu/2007

No comments:

Post a Comment