Saturday, March 22, 2014

Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH.

Tiểu Đĩnh

Anh T. thân mến,
Tuần qua tôi có nhận bức thư không đề ngày của anh thăm hỏi, trong đó anh nêu một vài việc anh muốn biết. Xin cám ơn anh viết bức thư gợi nhớ đến cuộc chiến Việt Nam, cuộc chiến dài nhất thế kỷ trong lịch sử cận đại của nhân loại mà “ngàn năm hồ dễ mấy ai quên.” Không quên nhưng cũng không lên tiếng vì đa số chúng ta nay đã qua tuổi nhi nhĩ thuận, tuổi nghe ai nói gì, dù đúng hay sai, cũng gật đầu cho là phải rồi yên lặng. Huống hồ tôi nay đã quá cổ lai hi, tuổi với ngày mai có thể không có thật. Thế nhưng, khi anh lên tiếng thì tôi xin theo thứ tự trả lời như sau.


Huy hiệu Lực lượng đặc nhiệm thuỷ bộ 211.

Lực lượng Thủy Bộ là một đại đơn vị tổng trừ bị được Bộ TMT tăng phái hành quân cho Quân đoàn 4 và V4CT từ năm 1969, hậu cứ thời bấy giờ đóng tại Trà Nóc, Cần Thơ. Khi tôi nhận đơn vị này vào thời điểm anh nói thì phần lớn các Giang đoàn Thủy bộ đã được tăng phái cho một số tiểu khu trong vùng. Do thế mà ngày tôi đến trình diện TL/V4CT, tướng Nguyễn khoa Nam, để nhận việc, ông yêu cầu tôi gấp rút nghiên cứu rồi trình ông kế hoạch tái lập Lực Lượng Đặc nhiệm Thủy Bộ như những năm 1969-70. Quyết định của ông cho biết ông dự trù sẽ có những trận đánh lớn trong Quân khu của ông; và đó cũng là để nói lên lòng ông tin tưởng ở khả năng tác chiến của những thủy thủ phục vụ vùng có nhiều sông rạch.
Thời phục vụ các giang đoàn, tôi có tìm hiểu những gì đã làm cho thủy thủ trong sông không chùn chân trước khi đi vào chiến địa. Tôi cho đó là tình yêu thương đất nước quê hương, là tinh thần chiến đấu, là quyết tâm trả thù cho những bạn bè bị ngã gục. Kế đó là tinh thần kỷ luật cao độ cộng với niềm hãnh của người lính trận có truyền thống riêng. Những yếu tố này khiến thủy thủ trong sông tự tin và ngạo nghễ, vừa hào hùng vừa lãn mạn đến mức thành "ba-gai" một cách đáng yêu. Việc bỏ tàu bỏ bạn trong hành quân bị xem là hành vi xấu xa, là một sứt mẻ trầm trọng cho tự ái cá nhân. Tóm lại, người thủy thủ xuất sắc luôn biết sống chết với quê hương, chung thủy với bạn bè, luôn tự tin với tinh thần lạc quan, và biết tự trọng mà bám sông bám biển. Tôi được cái may ở chung đơn vị với nhiều thủy thủ như thế trong những năm tháng vui buồn với cuộc chiến ta không lựa chọn, nhưng chấp nhận tiến hành vì ý chí bảo vệ quê hương gồm gia đình và lối sống tự do của người dân miền Nam cương quyết đứng về phía ta như cuộc chiến Mậu Thân năm 1968 đã chứng tỏ.


Các chiến đĩnh Monitor thao diễn trên sông Sài Gòn.

Từ cuối 1974, chắc anh còn nhớ, chiến sự trên quê hương miền Nam thêm sôi động; binh sĩ và các cấp chỉ huy tại những đơn vị chiến đấu cảm thấy gần nhau hơn bao giờ hết. Những ai trong tác chiến từng thấy binh sĩ của mình chẳng nay bị thương vong, hay chính mình bị ngã tại trận tiền mà còn được chiến tranh tha thứ, máu mình hòa với máu đồng đội thì hiểu rõ điều này. Gần gũi và cùng thích một việc thì ghét nhau. Nhưng gần gũi chung lo một việc thì sinh gắn bó là lẽ thường. Khi còn trong quân ngũ, có đi đâu rồi cũng tìm về, nghĩa là sống chết có nhau.

Sự gắn bó đó vừa xúc tác, vừa hỗ trợ tinh thần của binh sĩ đang tại nhiệm sở địa đầu. Nhiều cây bút quân đội xác đáng cho đó là kỷ luật cần thiết để bảo đảm sự an toàn trong chiến trận, đồng thời còn giúp quân nhân trấn áp được nỗi sợ để giữ phẩm giá của mình trong giờ phút nguy nan cao độ. Phẩm giá này, nếu mất đi, sẽ gây tủi nhục cho thế hệ kế tiếp khi họ bắt đầu biết suy nghĩ.

Nhật báo Người Việt, Nam Cali, (Mục Diễn đàn - B1) ngày 4 tháng 11 năm 1998, có bài Đôi Mắt Người Bị Xử Bắn Trong Rặng Bình Bát của tác giả Nguyễn Bửu Thoại. Trong lời phi lộ, tác giả nói là viết để trả lời cho câu hỏi các con của ông. Câu đó là "Ngày Xưa Ba Đi Lính Đã Làm Gì Mà Phải Bỏ Nước Ra Đi? ”[1]

Với tác giả, tôi có tiếp chuyện. Ông nói có nhiều người cũng đã thắc mắc về nghi vấn nói trên, đồng thời ông còn xác nhận tuổi trẻ, khi thấy tự ái bị xúc phạm thì sẽ có những câu hỏi không ngờ. Riêng tôi xin ý kiến của tác giả bài viết vì thấy câu hỏi các con ông cũng gần giống như câu vấn trong thư anh “Vì sao đa số quân nhân Thủy Bộ bị kẹt lại, không di tản được.” Tôi hiểu câu của anh có đại ý: khi con tàu đất nước sấp bị chìm thì di tản là tốt, kẹt lại là không tốt.” Hai phạm trù này vừa thống nhất vừa đối lập nhau giống như tốt với xấu hay là thiện với ác.
Suy cho cùng, trên đời này chỉ có thiện mà không có ác. Giống như có bóng tối là do thiếu ánh sáng, có màu đen là do thiếu sắc tố, lạnh là do thiếu sự nóng, điều con người gọi là ác chỉ là cái thiện còn bị thiếu sót mà ra. Cái ranh giới giữa thiện và ác như thế quả thật mong manh, vì nếu nói theo Alexandr Soljenitsyne thì đường ranh giới này không chạy ngang các quốc gia mà chạy qua trái tim con người. Hay là giữa thiện và ác có nhiều trăn trở, trong đó lương tâm con người là thẩm quyền quyết định. Ngoài sinh hồn và giác hồn mà tất cả sinh vật khác đều có, con người, còn có linh hồn và lương tâm biết suy xét đúng sai. biết thiện biết ác, và biết thế nào là lòng tự trọng. Ngày đó, sự bỏ nước ra đi hay ở lại cũng đều qui về cái thiện, tức là đời sống con người. Điểm khác nhau giữa hai lựa chọn này là đời sống cho cá nhân hay đời sống cho tập thể, nếu quả có sự lựa chọn đó.


Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà tung bay trên các chiến đĩnh ASPB trong ngày thành lập lực lượng thuỷ bộ.

Để sang một bên cái thuần lý chung chung của vấn đề “bị kẹt lại” thì thấy tình hình miền Tây không giống như Sài Gòn. Ở Sài Gòn thời đó có Hạm Đội đi biển như phương tiện qui mô mà người Mỹ cần thu hồi theo chương trình Lend-Lease Act hiệu lực kể từ ngày 11 tháng 3 năm 1941, trong khi miền Tây thì không. Cố Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt ký pháp án này như con lưỡi dao hai lưỡi. Nó đã cho phép Hoa Kỳ chi viện các nước đồng minh giúp Hoa Kỳ chiến thắng Thế chiến 2 để từ đó mà lên ngôi bá chủ cho đến nay. Nó giúp nhiều quốc gia, trong đó có Đệ nhất Công Hòa miền Nam đứng vững từ 1954; và cũng chính nó đã góp phần xóa bỏ nền Cộng Hòa này tháng 11 năm 1963, rồi đến tháng 4 năm 1975 thì nó thành lá bùa hộ mạng cho hơn 30 ngàn đồng bào ta ra khơi chạy nạn chiến tranh. Lý do của điểm sau cùng này là theo nội dung của Lnd-Lease, các chiến hạm Hoa Kỳ chuyển giao cho Việt Nam dùng trong chiến tranh chỉ là cho mượn, khi xong việc thì thu hồi về bằng mọi giá.

Tại Vùng 4 Chiến Thuật vào thời anh nói, nếu để ý sẽ thấy:(1) Dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh Quân Đoàn 4, các đơn vị chiến đấu cơ bản (Sư đoàn) thuộc Quân Khu 4 còn nguyên phong độ đến khi có lệnh buông súng, (2) Không một Tư lệnh Sư đoàn nào trực thuộc Quân khu 4 bỏ nhiệm sở mà ngược lại có nhiều vị tướng khác, sau khi cố hết sức mà không giữ được thủ đô bèn tìm về Quân Khu 4, mong giúp lật ngược thế cờ, và (3) Hầu như không một dân thường miền Tây nào bị tử vong hay bị cướp bóc trong ngày định mệnh của đất nước. Quan trọng nhất là không có diễn lại thảm cảnh miền Trung. Tại Vùng 4, cứu cánh này là do lời giao ước của Tư lệnh Quân Khu 4 với người dân miền Nam tự do nói chung và người dân miền Tây nói riêng. Ông quan niệm rằng chiến sĩ tuyến đầu rất cần có một địa phương ổn định mới yên tâm hành quân diệt giặc. Ngược lại, một địa phương muốn được ổn định thì rất cần binh sĩ kỷ luật, hữu hiệu, nương nhau thành một khối, không có bất cứ một hành động nào gây đại họa, kinh hoàng, hay khủng hoảng cho thường dân, đặc biệt vào giờ phút nghiêm trọng nhất.

Nhiều năm hoạt động trong ngành Tâm Lý, chắc anh cũng cho đây là hình thức cố định của tình quân dân cá nước. Khi nghĩ như trên, tướng Nam đã thật sự nắm được nghĩa triết học của chữ SƯ (đoàn) được người xưa diễn dịch bằng quẻ Khảm và quẻ Khôn, tức là quân với dân như Nước với Đất. Bình thường thì nước nằm trong đất. Khi cần thì nước từ lòng đất tung ra dũng mãnh như thác xuyên ghềnh. Xong rồi thì nước chui lại vào đất, yên lặng, ngoài nhìn không thấy. Đó là vì sao khi nhận trách nhiệm vùng 4 chiến thuật, tướng Nam đã đặc biệt chú ý nâng phẩm lượng tác chiến của Nghĩa quân và Địa phương quân tại khấp miền Tây, trong khi quân chính qui thì thành lực lượng trừ bị của vùng.[2]
 
Anh có thể hỏi nước với đất là tương khắc, sao đứng chung với nhau được. Đúng vậy. Nhưng cái tương khắc đó sẽ được hóa giải bằng đức độ của súy, bằng kỷ luật nghiêm minh của quân đội. Theo luật an toàn vật thể thì đạn và nhiên liêu dễ cháy phải nằm cách nhau từ 200 đến 300 thước, ở giữa có tường ngăn. Nhưng trên chiến hạm, hai thứ này chỉ nằm cách nhau mươi thước là nhiều. Kỷ luật phòng tai trên tàu hóa giải cho mối nguy này. Cho nên trong chiến trận, tướng Nam tin ông nắm được quân và ông rất bình thản mà —trong trường hợp chẳng đặng đừng— đưa kế hoạch của ông hội tụ vào điểm cao nhất, khó thực hiện nhất của lời giao ước nói trên là: Kỷ luật để thắng mình, thắng giặc, và cứu dân lành trong chiến trận.

Phải ở cạnh ông trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975 mới thấy ông và vị tướng phụ tá của ông rõ ràng có chuẩn bị thi hành lời giao ước đó từ quan niệm quân đội trách nhiệm bão quốc an dân đến cách điều binh và rồi đi gặp định phận của chính mình. Khác với việc bỏ nước ra đi, theo lời con ông Nguyễn Bửu Thoại, cái kết cuộc của hai ông không phải được thành hình trong một sớm một chiều. Đó cũng không phải để phủ nhận cái định phận tối tăm của những tên lính chì trên một bàn cờ với mục đích mua vui cho ai đó. Nó đã nằm trong tâm nguyện khi hai ông chọn cho mình đời binh nghiệp, trong đó điều tối kỵ là "Mệnh lệnh chí kỳ... ” [3] Cho nên vì tự ái, ông không thể thất hứa rồi quay mặt với từng binh sĩ thuộc quyền, với gia đình của họ, với thân phận các thương bệnh binh trong quân y viện và oan hồn tử sĩ còn tại các nghĩa trang quân đội, điều mà mỗi khi nghĩ đến, người có tấm lòng thường quên ăn mất ngủ.

Từ xưa, tử sĩ thường được nhắc đến bằng những lời thơ thật trân trọng, thanh thoát nhưng cũng thật buồn, vì nghe như vọng lại từ bên trong phần mộ. Lý do tử sĩ đâu màng được truy tặng huân công hay cấp bực. Không ai nỡ nghĩ rằng sự hi sinh của mình tại trận tiền là định giá cho người đời đổi lấy cái vinh quang thường là lắm chuyện. Có ai muốn đời mình sẽ thành mặt trái của những huy chương cho người khác mang trên ngực và cấp bực mới trên vai [4]. Nơi chín suối họ chỉ mong ước quê hương vắng bóng quân thù, và ông bà, cha mẹ, gia đình con cái họ được chăm lo y như khi họ còn sống. Đó là đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam lấy gia đình làm trọng [5], và cũng là một tình cảm rất người, mỗi đồng đội coi đó như món nợ mà người cùng hội phải lo thanh thỏa cho nhau. Do đó, khi chiến trận còn tiếp diễn, danh sách tử sĩ ngày một dài ra. Sau cùng thì khi vận cùng thế kiệt, tướng thủ thành thường tử tiết chính vì món nợ này. Món nợ mà người ở cấp chỉ huy nếu chưa trả thì sẽ còn đó, dù cho có theo dòng định mệnh mà trôi dạt về một không gian và một thời gian khác.

Trong hoàn cảnh đó, nếu quyết định tự kết liễu cuộc đời khó khăn bằng một thì -như tướng Nam (V4CT) và các vị đã thành nhân [6] khác khi cuộc chiến vừa tàn đã nghĩ- sự di tản cho cá nhân mình mà bỏ lại thuộc hạ thì còn khó khăn hơn thế nhiều lần. Ông là một vị tướng còn mang tinh thần võ sĩ đạo cuối cùng thời quá giữa thế kỷ 20. Ngày xưa khi ở quân trường đến bài giảng về uy nghi và lao dịch của đời thủy thủ thì thầy dạy rằng trong chiến đấu trên biển, nếu không may chiến hạm mình bị chìm thì hạm trưởng phải là người di tản sau cùng, nghĩa là ông phải bảo đảm rằng đến lượt ông rời tàu thì trên tàu không còn một ai còn sống sót. Nhưng trong hải chiến, có vị hạm trưởng nào dám đoan chắc rằng trên tàu mình không còn thượng binh bị kẹt đâu đó trong những hầm đã bị hư hại, cửa ra vào bị kẹt không mở được. Do đó mà lương tâm của người được chỉ định chức vụ hạm trưởng đã chọn cái định phận theo tàu của mình rõ ràng là một định lệ bất thành văn. Với Hải Quân Hoàng Gia nước Anh thì cụ thể hơn. Năm 1958, trong một chuyến du hành thực tập trên chiến hạm HMS Chichester của Anh, thấy có vài cuộn dây móc ở nóc phòng lái, tôi hỏi vị sĩ quan người Anh, Thiếu tá Jon Austick, những dây đó để làm gì. Ông nói:” Để hạm trưởng dùng tự buộc ông vào tay lái khi tàu này bị chìm.” Thời đó các nay đã hơn nửa thế kỷ! Sinh lực Hải Quân của họ nằm ở truyền thống hải nghiệp lâu đời nhất trên thế giới này, một truyền thống mà tướng TL/V4CT đã nhìn thấy

Chiều ngày 30 tháng Tư, ông một mình lái xe đi thăm tử sĩ tại nghĩa trang quân đội ở Cần Thơ. Xong về Tổng Y Viện Phan thanh Giản thăm và bắt tay các thương bệnh binh như một cữ chỉ biết ơn. Hừng sáng hôm sau ông đi, sau vị phụ tá của ông khoảng không đầy 10 tiếng đồng hồ. Thời đó, ông có một Sư đoàn Không Quân trong tay, nhưng ông biết giữ lời hứa danh dự cho riêng ông. Ông và nhiều vị tướng tử tiết khác biết sống với danh dự và thác với phẩm hạnh mà lên thần. Tâm tư của ông ngày đó ông giữ cho riêng mình. Nhưng có thể ông nghĩ trong ngày tàn của đất nước, bỏ đi hay ở lại với đơn vị là tùy thái độ mỗi cấp chỉ huy tự xử trước lương tâm và lịch sử. Và đó là định phận cho từng cá nhân, nên dù bỏ đi hay ở, không ai có lỗi cả. Nhiệm vụ chiến đấu của ông ngày đó đã chấm dứt nhưng trách nhiệm tinh thần của ông đối với các quân nhân thuộc hạ của ông vẫn còn.
 
Ông đã gánh trên đôi vai của ông một miền Nam đang hấp hối. Và ông lấy cái chết của chính mình để một mặt cho quân nhân các cấp hãnh diện có một chủ súy xứng đáng với danh xưng, một mặt ngăn cho thuộc hạ của ông những nỗi khổ sở vì bị bỏ rơi, và ngừa những cái chết oan uổng một khi cuộc chiến đã được sấp xếp để cho miền Nam bị thua lúc bấy giờ [7]. Tôi nghĩ do hiểu như thế mà các vị Tư lệnh Sư đoàn cũng như đơn vị trưởng các đại đơn vị khác không nỡ bỏ ông, bỏ ngũ, bỏ rơi binh sĩ của mình. Ông đã làm sống lại gương dũng cảm của những Nguyễn tri Phương, những Trần bình Trọng, những Võ Tính, những Bùi thị Xuân, và nhiều nữa khi đất nược gặp nguy vong.
Trong hoàn cảnh đó, Lượng Thủy Bộ nằm trong cái thế cân bằng quân sự toàn vùng, nên khó thể tháo lui mà không gây hoang mang rã ngũ cho những đơn vị bạn, kéo theo cảnh hỗn loạn tất nhiên trong dân chúng; rồi lịch sử sẽ còn nói đến với lời lẽ khó thể nhẹ nhàng. Bị người đời chê cười —oan ưng chưa biết— thì coi như nhận cái cười chê để xả nghiệp. Bị lịch sử chê cười thì là nổi nhục cho cả dòng họ, là đại bất hiếu theo nghĩa của Đông phương.

Đến đây anh có thể hỏi những người phải ở lại để chịu phận tù đày có oán hận những người đả bỏ đi hay không? Tôi nghĩ đại để hầu như là không. Thường những ai đã làm hết sức mà không thoát khỏi định phận nghiệt ngã của mình thì biết tất cả mọi sự đều do nghiệp lực mà ra. Lúc đó thì giữa sống và chết không có gì khác biệt. Họ cũng không ưng thấy các cấp lãnh đạo hàng quốc gia miền Nam ở lại để vào tù, vì họ không phải là những người lấy ghen tức làm lẽ sống.

Vào những năm sống trên đất Bắc, tôi gặp hầu hết quí vị sĩ quan cao cấp và Tư lệnh các Sư đoàn trực thuộc Quân Đoàn 4 trước kia. Tôi cũng gặp lại nhiều sĩ quan thuộc lực lượng Thủy Bộ. Không ai còn nhắc đến quá khứ hay phiền trách gì ai. Dường như trong nhiều năm sống với yên lặng và suy tư, nhiều lúc cảm thấy như cận kề cái chết vì bệnh tật, vì đói khát, quí vị đó hiểu rõ tác năng của chữ nghiệp trong cuộc đời mỗi người. Đi theo chữ nghiệp này, họ còn giữ được danh dự của một người lính sống chết với quê hương. Ngoài ra, họ còn có dịp học được bài học khó nhất, quí báu nhất là biết mình là ai, hay là tìm được bản thân mà trước đó mình đã đánh mất hồi nào cũng không nhớ!
Riêng có một cựu Chỉ huy trưởng Giang đoàn Thủy Bộ nay không biết ở đâu, khi tình cờ gặp tôi đang ngao du trong một khu rừng Yên Bái, anh biếu tôi một ống pipe nay tôi còn giữ làm kỷ niệm. Tuy hơn anh ấy những mười tuổi đời mà chưa từng nghe ai nói, " Ngày trước em đi trận đánh tụi này không nhân nhượng. Không phải ghét chúng mà em chỉ muốn góp phần cứu dân miền Bắc ra khỏi sự u mê Mác Lê, và cứu miền Nam chúng ta khỏi nạn khủng bố và tham nhũng nếu để bị thua trận. Rồi nay nghiệp báo viên thành, trong bộ đồ tù của bọn chúng, em thấy mình vẫn uy nghi."

Anh ngừng một vài giây rồi tiếp:" Bây giờ em thấy những gian khổ em đang gánh chịu đây, nếu em còn sống và ra khỏi nơi này, sẽ giúp tuổi già của em có được sự bình yên. Em đã tòng quân giữ nước, trả thù nhà vì anh em của em đều vào lính Cộng Hòa, bị thương tích đầy người, và bây giờ thì em đang trả nợ đời lính của em. Thời trước em dẫn quân đi bắn mổ cũng nhiều. Tổ quốc cho rằng em có công, nhưng Thượng đế thì có luật nhân quả của Ngài. Không biết điều em nói đây là đúng hay sai nhưng qua nhiều suy tư giữa rừng già, em thấy nó phải là như vậy. Một thời làm vua, cả đời là vua; một thời làm lính, cả đời là lính; một thời làm cấp chỉ huy, dù cao dù thấp, cả đời phải sống như mình là cấp chỉ huy. Em nay không còn thắc mắc gì nữa,. thưa ông thầy (!) Lịch sử không kết tội em là được. "

http://www.mrfa2.org/images/Gary%20Oliver/Askari-AlphaBoats.jpg
 
Cố Tổng Thống Hoa Kỳ, ông Richard M. Nixon, có nói một câu hơi lạ mà nghĩ thì cũng đúng, là: “Lịch sử sẽ được viết tùy theo người nào viết ra nó.” Lý do là những người làm nên lịch sử thường không còn, những người còn lại để viết thì không có mặt tại nơi xảy ra từng sụ kiện lịch sử, chỉ ngồi nhà nghe chuyện trong bàng dân thiên hạ nói về những chuyện gì đó rồi mang vào những trang giấy cho có đầy chữ rồi gọi đó là lịch sử. Do thế mà hi vọng sau này, người viết sử không quên là khi vận nước đến thời nghiêng ngửa, bản đồ thế giới cần được vẽ lại phù hợp với quyền lợi ai đó, miền Nam phải bị bại vong theo kế hoạch cũng của ai đó, quân nhân miền Tây thật sự có cố gắng bảo vệ dân lành cho đến lúc cuối, đồng thời lo an ninh bờ sông cho đa số đồng bào trên sông Cửu Long an toàn di tản ra biển. Chừng đó, những chiến sĩ miền Tây cũng như các chiến sĩ tại các miền khác còn quyết tâm cố giữ vững trận địa trong những ngày u tối đó, may ra mới được an lòng nếu còn sống, và khỏi ngậm ngùi nếu đến hạn phải ra đi.

Tôi nay thì lực dĩ bất tòng tâm, ký ức chứa toàn những chấp vá, luộm thuộm, nhớ đâu viết đó thành một thứ tạp-pí-lù. Qui luật này nào ai tránh được, khi mà nhìn quanh từ bàn ăn, bàn rửa mặt, bếp núc đâu đâu cũng thấy thuốc thứ này thứ nọ bày la liệt, ngày nào cũng dùng lia chia, khi cần đến thì đỡ phải tìm! Cho nên thư này chỉ được viết với tính cách trao đổi giữa hai chiến hữu già mà thôi. Viết xong thấy không ưng ý, nhưng cũng phải gửi kẻo anh mong.

Chúc anh nhiều sức khỏe, rất cần.
Thân mến,
Tiểu Đĩnh

[1] Nội dung bài viết này nói lên lòng nhân đạo của các chiến sĩ miền Nam trước sự tàn bạo của người CS đối với người của họ.
[2] “Sau vụ Tết Mậu Thân 1968 Bộ Tư Lệnh Mỹ thay đổi. Đại Tướng Creighton Abrams lên thay Đại Tướng Westmoreland và đổi quan niệm về cuộc chiến và phương pháp hành sử. Tướng Abrams nhấn mạnh “chiến tranh toàn diện” gồm cả hành quân, bình định và gia tăng khả năng QLVNCH theo một quy trình cấp bách ngang với chiến trận. Chiến thuật cũng thay đổi từ quan niệm “truy và diệt” qua “bình định và giữ đất”. Có nghĩa là khi địch bị đẩy ra khỏi vùng có dân thì quân đội phải đóng lại chớ không rút đi cho địch trở lại. Do đó Địa Phương Quân được phát triển tối đa để phụ trách an ninh và bình định lãnh thổ” -Trích Xác Định Giá Trị Của Người Chiến Sĩ VNCH của tác giả Trần đổ Cung.
[3] “Mệnh lệnh chí kỳ vi chi tặc.”
[4] ....
Em không thấy được xác chàng
Ai thêm lon giữa hai hàng nến trong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai.”
Bài thơ Thương ca 1 đã được phổ nhạc, của tác giả Lê thị Ý
[5] Với người làm cách mạng thì “Cách mạng với gia đình không là một.” Lớn lên với đất nước trang 157
của tác giả Vy Thanh.
[6] Hai chữ thành nhân trong câu nói được lưu truyền của liệt sĩ Nguyễn thái Học (Không thành công thì cũng thành nhân) có nghĩa vì nước mà hi sinh hay là tử tiết.
[7] Theo tài liệu viết tay của cựu Đại tá Trưởng Phòng 3 Quân Đoàn 4, hiện sống tại Nam California, thì trong lúc tiếp người đại diện của GPMN trưa ngày 30 tháng 4, sau khi ông DVM tuyên bố miền Nam buông súng, tướng NKN có nói đại ý, “ Chúng tôi thi hành lệnh của nguyên thủ chúng tôi. Riêng tôi thì cuộc chiến chưa chấm dứt ở đây.”


Vinh Thăng Cho Một Loài Chim
Nhạc Trầm Tử Thiêng- Thái Thanh ca
Music online & downloadable

ĐạI úy Trần Thế Vinh

Trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khi cùng cả nước ra sức ngăn chận cuộc xâm lăng của Bắc quân trên cả ba mặt trận chính Quảng Trị, Komtum và Bình Long, các đơn vị và chiến sĩ KQVNCH đã tạo được nhiều thành tích chói ngờI cho quân sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa góp phần quan trọng trong những chiến công giữ vững miền Nam. Tuy nhiên trong năm này Không Quân VNCH cũng phảI chịu nhiều mất mát và một trong những cái tang gây nhiều tiếc thương cho cả trong lẫn ngoài Quân Chủng là sự ra đi của ĐạI Úy Trần Thế Vinh Phi Đoàn 518 Phi Long trên vùng trời Quảng Trị.

ĐạI úy Trần Thế Vinh sinh ngày 27-9-1946 tại Ninh Cường, Nam Định, Bắc Việt .Cùng gia đình di cư vào Nam năm 1954. Anh gia nhập Không Quân cuốI năm 1964 khi đang theo học ĐạI học Luật Khoa.

Sau khi mãn khóa hoa tiêu quan sát tạI quân trường Nha Trang, Trần Thế Vinh được gửI theo học khóa phi công khu trục AD-6 tạI Hoa Kỳ. Anh tốt nghiệp thủ khoa khi cùng học vớI nhiều phi công ngoạI quốc khác. Được coi là một phi công “AS” sau các bậc đàn anh như Quốc, Chấn, Tế, Huề, Du . . . Về nước Trần Thế Vinh phục vụ tạI Phi Đoàn 518 Phi Long, bên cạnh những bậc đàn anh lừng danh qua những phi vụ Bắc phạt. Anh lần lượt mang cấp bậc Thiếu úy từ tháng 3 –1967, thăng Trung úy vào tháng 3-1969. ĐạI úy từ tháng 1-1972, giữ chức Phi tuần trưởng A-1 và từng được thưởng rất nhiều huy chương càc loạI, đáng kể nhất là những huy chương Anh Dũng và Phi Dũng Bội tinh các cấp cùng Chiến Thương Bội tinh.



Khi chiến cuộc vùng Trị Thiên sôi động vì Bắc quân vượt vĩ tuyến mở cuộc tấn công đạI quy mô vào Quảng Trị. Ngày 01-4-1972 Phi đoàn 518 được biệt phái ra Sư Đoàn 1 KQ để trực tiếp yểm trợ cho các cánh quân vùng địa đầu giớI tuyến, và ngay lập tức trần Thế Vinh hăng say tình nguyện tham dự tất cả các phi vụ không ngơi nghỉ bất kể thờI tiết xấu như thế nào và phòng không địch đan kín bầu trời .

Ngày 2-4-1972 Trần Thế Vinh thực hiện phi vụ đầu tiên tạI vùng giớI tuyến, hạ 5 chiến xa Bắc quân ở phía bắc Đông Hà, phi cơ của anh bị trúng đạn phòng không 12 ly 7 bên cánh trái nhưng anh vẫn trở về căn cứ an toàn. Liên tiếp 3 ngày tiếp theo sau đó, ngày nào ĐạI ùy Vinh cũng cất cánh bay và ngày nào cũng bắn hạ được xe tăng địch. Tổng cộng chỉ trong vòng 3 ngày 2, 3 và 4-7-1972 anh hạ tất cả 20 chiến xa Cộng quân, nhiều lần phi cơ bị trúng đạn phòng không nhưng anh vẫn trở về căn cứ an toàn.

Để động viên tinh thần chiến đấu của quân đội. bộ Tư Lệnh KQ/VNCH đã phốI hợp vớI Cục Tâm Lý Chiến thực hiện một chương trình truỵền hình về các chiến công của quân chủng phát trên đài truỵền hình quốc gia tạI Sài Gòn vào hai ngày 7 và 8-4-1972. Trong chương trình này Thiếu tá Lê Phước Hùng, phi đoàn trưởng PĐ 518 đã giớI thiệu ĐạI úy Trần Thế Vinh là phi công anh dũng và xuất sắc nhất của đơn vị. Ông hứa vớI khán giả rằng trong tuần lễ kế tiếp sẽ đưa ĐạI úy Vinh về giớI thiệu trực tiếp vớI công chúng. Trong khi mọI ngườI hân hoan và nóng lòng chờ đợI được thấy mặt viên phi công anh dũng một mình trong ba ngày liên tiếp bắn hạ 20 chiến xa CS Bắc Việt tạI Quảng Trị thì bất ngờ sáng ngày 9-4 ĐạI úy Trần Thế Vinhgãy cánh trong khi thi hành phi vụ khẩn cấp giảI vây cho căn cứ Phượng Hoàng lúc ấy do Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến phòng thủ đang bị Cộng quân vây chặt và tấn công dữ dộI bằng pháo binh ,chiến xa và bộ quân.

Cùng Phi tuần viên ĐạI úy Phan Công Định, phi tuần trưởng ĐạI úy Trần Thế Vinh cất cánh rờI phi trường Đà Nẵng vào lúc 8 giờ sáng Chủ nhật 9-4 trong lúc thờI tiết rất xấu, trần mây rất thấp. Tầm nhìn xa không quá 50 mét khiến ĐạI úy Vinh đã quyết định áp dụng chiến thuật táo bạo là cả hai phi cơ bay rất thấp gần đến mục tiêu mớI bốc lên cao và từ đó lách mây đâm xuống oanh kích để tạo yếu tố bất ngờ. Chiến thuật gan dạ nhưng đầy liều lĩnh này đã khiến địch quân không kịp trở tay và các chiến xa Cộng sản không thể tránh kịp phơi mình làm mục tiêu ăn bom và có 4 chiến xa trúng bom tu62 phi cơ của ĐạI úy Vinh ngay khi anh vừa đâm bổ xuống. Tuy nhiên vì xuống quá thấp, phi cơ của anh đã bị trúng đạn phòng không và bốc cháy không kịp bay ra khỏI khu vực nguy hiểm. ĐạI úy Phan Công Định đã báo cáo phi cơ của ĐạI úy Vinh đâm xuống đất và không thấy có chiếc dù nào bay ra.

ĐạI úy Trần Thế Vinh, Chim Thiêng đã bỏ trờI xanh, bỏ ngườI tình .bỏ bạn bè . . . Chim Thiêng đã về ngàn. . . Vinh đã anh dũng hy sinh đền nợ nước khi tuổI đờI chưa tròn 26. Anh ra đi trong sự xúc động của cả nước, từ dân đến quân ,cả trong lẫn ngoài quân chủng. Chiến tích một mình trong một tuần lễ hạ 21 chiến xa địch đã khiến anh trở nên một huyền thoạI có thực của Không Lực VNCH. Ngay sau đó chân dung ĐạI úy Trần Thế Vinh xuất hiện trên những tấm bích chương cổ động nhằm nâng cao tinh thần chiến đấu của quân dân được trưng bày khắp mọI ngả đường trên toàn quốc. Chưa bao giờ hình ảnh và tên tuổI một phi công được nhắc đến vớI lòng tiếc thương yêu mến mãnh liệt như thế !

ĐạI úy Trần Thế Vinh sống mãi trong Quân Sử hào hùng của Không Quân VNCH và Quân Lực VNCH !


Thủ Đô Sài Gòn tháng 5 mùa binh lửa 1972




Hình bìa Nguyệt san Lý Tưởng của KQVNCH số ra ngay sau khi Đại úy Trần Thế Vinh gãy cánh tại Đông Hà



***********
Trầm tĩnh bay vào lửa đạn


Đại Bàng Phạm Văn Thặng gãy cánh trên vùng trời Cao Nguyên


Hơn một tháng sau thêm một cánh chim A-1 khác đã bỏ đường bay, vĩnh viễn ra đi tạI mặt trận Tây Nguyên.

Ngày 26-5-1972 trong khi khi thi hành một phi vụ cận yểm cho các lực lượng bạn đang giao tranh vớI địch tạI thị xã Komtum, phi cơ của Thiếu tá Phạm Văn Thặng đã bịI trúng đạn phòng không của Cộng quân, Không nao núng, không vị kỷ lo lắng cho bản thân mình. Thiếu tá Thặng đã quay trở lạI mục tiêu thả nốt số bom còn lạI. Không bung dù thoát hiểm và cam chịu sức nóng thiêu đốt của lửa để đưa phi cơ ra khỏI vùng dân cư, khi ra khỏi thì lửa định mệnh đã làm hỏng hệ thống ghế thoát hiểm tự động giam hạm ngườI hoa tiêu can trường trong phòng lái ngập khói và lửa. Sau khi đáp bụng xuống ruộng, phi cơ phát nổ mang Thiếu tá Phạm Văn Thặng vĩnh viễn vào cõi hư vô .

Thiếu tá Nguyễn Thế Luân, cánh chim đầu đàn của PĐ 425

Cũng tạI mặt trận An Lộc một cánh chim dũng cảm khácđã ra đi không trở lại
Chuẩn tướng Lê Văn Hưng và toàn quân cố thủ tại An Lộc mong đợI từng giờ từng phút những chuyến bay tiếp tế, và những ngườI chuyên trách việc tiếp vận luôn hiểu rõ điều này, bất cứ giá nào cũng phảI lao vào lướI đạn của địch tiếp tế những kiện hàng cho quân bạn.
Ngày 19-4-1972 ba phi cơ vận tải C-123, danh hiệu Phi Long 1,2 và 3 vào tiếp tế cho đoàn quân tử thủ An Lộc của tướng Hưng đã được dàn chào long trọng đầy đủ nghi thức từ các dàn phòng không của Bắc quân. Thân hình đồ sộ, di chuyển nặng nề mang chởI những kiện hàng tiếp tế, không võ trang. Kim Long 2 và 3 vẫn lao vào mục tiêu thả đồ tiếp tế cho quân bạn. Kim Long 1 vớI trưởng phi cơ ,Thiếu tá Nguyễn Thế thân, con chim đầu đàn của phi đoàn 425 đã không được may mắn như hai ngườI bạn trong phi đội. Phi cơ anh bay vào mục tiêu của hàng loạt đạn cao xạ phá vỡ thân tàu, Kim Long 1 nổ tan và không một cánh dù nào xuất hiện

Thiếu tá Lê Văn Lộc đền nợ nước trên vùng trờI Cai Lậy
Xuôi về vùng đồng bằng Cửu Long, trận chiến Cai Lậy không kém phần sôi động. Hỏa lực phòng không địch càng dữ dộI, vũ khí địch càng tốI tân, những đôi cánh thép của Không lực VNCH càng chứng tỏ sự gan dạ tột độ của mình, không phảI chỉ những hoa tiêu điều khiển trực thăng đổ quân hay vũ khí tăng cường mớI liều lĩnh len lỏI vào tầm hỏa lực dày đặc của địch để thi hành trọn vẹn phi vụ mà ngay cả những ngườI ngồI trên phi cơ chỉ huy cũng phảI đương đầu vớI hiểm nguy chấp nhận sự hy sinh. Thiếu tá Lê Văn Lộc trưởng phòng hành quân PĐ 211 đã đền nợ nước tạI Cai Lậy ngày 29-7-1972 khi chiếc trực thăng do anh điều khiển bị trúng phòng không địch. Trên cương vị chỉ huy ,Thiếu tá Lộc luôn có mặt ở tuyến đầu sát cánh bên cạnh chia sẻ những gian nan và cả sự hy sinh cùng đồng độI

Thiên Lôi Đỗ Hữu Toàn vĩnh viễn giã từ vũ khí



Ngày 26-1-1973, một ngày buồn ảm đạm, vùng trờI Bình Định đã chứng kiến những giờ phút cuốI cùng thật kiêu hùng của Thiên Lôi Đỗ Hữu Toàn, anh vĩnh viễn giã từ vũ khí,rờI bỏ hàng ngũ các Thiên Lôi để đi vào cõI không vô tận.
NgườI phi công giữa khung trờI, dù phục vụ cho một lý tưởng nào đi nữa không tránh khỏI số phận con ngườI, anh và những đồng độI trước anh thân xác đã trở về lòng Đất Mẹ vớI tâm hồn dâng hiến trọn vẹn cho quê hương muôn đời .




Sau khi tốt nghiệp để trở thành hoa tiêu khu trục cơ A-37 btạI Hoa Kỳ, Trung úy Nguyễn Mạnh Dũng được bổ nhiệm về phục vụ tạI Phi Đoàn Phi Hổ 516, Không Đoàn 41 Chiến Thuật, Sư Đoàn 1 KQ, Đà Nẵng . Trung úy Dũng là phi công cuốI cùng bay chiếc A-37 của Không Lực VNCH đánh chặn các chiến xa T-54 và bộ độI Cộng Sản Bắc Việt trước khi thành phố SaiGon rơi vào tay Bắc quân.

ThờI gian phục vụ tạI PĐ Phi Hổ 516, trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972., Trung úy Dũng đã phảI nhảy dù thoát hiểm khỏI phi cơ khi chiếc A-37B của anh bị trúng đạn phòng không Việt Cộng trong một phi vụ yểm trợ tiếp cận cho Sư Đoàn TQLC tạI Quảng Trị.

Ngày 28-3-1975 khi Đà Nẵng trong cơn hỗn loạn vớI lệnh di tản của Tổng Thống Thiệu, Trung úy Dũng đã cùng đơn vị rút về tăng cường cho SĐ 6 KQ tạI Pleiku và sau đó tớI Phù Cát. Nhưng cuốI cùng căn cứ Phù Cát cũng phảI di tản.<o:p></o:p>
Giữa tháng 4-1975, Trung úy Dũng đáo nhậm đơn vị mớI là Phi Đoàn 526 thuộc SĐ 4 KQ tạI Bình Thủy, tạI đây Trung úy Dũng tiếp tục bay các phi vụ yểm trợ cho các cuộc hàn quân tạI các mục tiêu quân bạn đang giao tranh dữ dộI vớI Cộng quân. Sau cùng vào ngày 30-4-1975 vào khoảng 9 giờ 30 – 10 giờ sáng, Trung úy Dũng cùng phi tuần viên là Thiếu úy Đông cất cánh khỏI phi trường Bình Thủy vớI phi lệnh tiêu diệt các chiến xa T-54 của Cộng quân đang tấn công trạI Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám tạI Bảy Hiền – SaiGon. Phi tuần A-37B của Trung úy Dũng được sự hướng dẫn của phi cơ quan sát thuộc Phi Đoàn 122 Họa Mi cất cánh từ căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho, hoa tiêu là ĐạI úy Mai Trí Dũng và Thiếu úy Biện. Đây là phi vụ cuốI cùng của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, một phi cơ quan sát hướng dẫn phi tuần hai chiếc A-37B oanh kích địch quân đang tấn công vào cửa ngõ thủ đô Sài Gòn.

Sau khi hoàn tất phi vụ trở về đáp xuống phi trường Bình Thủy, Trung úy Dũng và Thiếu úy Đông sững sờ chết lặng khi nghe tin đã buông súng đầu hàng tạI Sài Gòn. Trung úy Dũng đã có thể cùng vớI nhiều đồng độI tìm cách vượt thoát khỏI Cộng Sản di tản sang Thái Lan.

Nhưng Trung úy Nguyễn Mạnh Dũng đã quyết định cất cánh trở lạI vớI bình xăng gần cạn, anh đã bay vút lên không gian bao la vớI con chim sắt thân yêu. Từ đó không ai biết số phận của anh ra sao .
Nguyễn Mạnh Dũng đã quyết định chọn riêng cho mình sự hy sinh cuốI cùng cho Tổ Quốc Không Gian
Viết để tưởng nhớ ngườI phi công anh hùng
Thiếu úy Huỳnh Bách Khoa PĐ 516 Phi Hổ
Bào đệ : Thiếu úy Nguyễn Cường Việt HQ 600, HảI Quân VNCH






Thiếu tá Nguyễn Gia Tập
Thà chết không để rơi vào tay địch

Chắc chắn trong chúng ta chưa một lần nghe nhắc đến tên anh nhưng sẽ là thiếu xót nếu không nêu tên anh cùng vớI những ngườI con đã viết lên trang sử kiêu hùng của quân chủng KQ/VNCH nói riêng và Quân Lực VNCH nói chung . Đó là Thiếu tá Nguyễn Duy Tập, anh thụ huấn khóa 64D phi hành tháng 10 năm 1964, sau đó tốt nghiệp T28 ở Randolph AFB,Texas và là một TopGun khóa A-1H ở Hurlburt Field.Florida, Hoa Kỳ.

Sau khi hoàn tất các khóa huấn luyện, về nước anh được chuyển về phục vụ tạI Phi Đoàn khu trục 518 Biên Hòa, Anh là một phi công lẫy lừng lập nhiều chiến công trong các chiến dịch hành quân cấp Sư, Quân đoàn. Sau đó anh được tuyển chọn làm sĩ quan liên lạc trong trường bay huấn luyện Keesler, Hoa Kỳ. Trong thờI gian này anh đã góp công rất nhiều trong việc chỉ dẫn giúp đỡ các SVSQ yếu kém để khỏI bị loạI vì thiếu khả năng phi hành. Hết nhiệm ký anh trở về phục vụ tạI Phòng Đặc Trách Khu Trục ,Bộ Tư Lệnh Không Quân.

Vào buổi sáng ngày 30 tháng 4 –1975 sau khi nghe được lệnh buông súng đầu hàng của “tổng thống 1 ngày” Dương v. Minh, anh đau đớn phẫn uất và như thể đã có sẵn sự quyết định cho mình từ trước ,anh mặc đồ đạI lễ KQ vớI đầy đủ cấp bậc, huy chương lên xe chạy thẳng vào Bộ Tư Lệnh,phòng Đặc Trách. Chính tạI nơi này anh đã rút súng bắn vào đầu tự sát quyết thà chết không để rơi vào tay kẻ thù. Cái chí khí Kiêu Hùng Bất Khuất cùa anh không thua kém gì các bậc Tướng Lãnh như Nguyện Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ. Anh xứng đáng là một anh hùng Liệt Sĩ cho hậu thế noi gương

Tuyết Trắng- Sĩ Phú
Music online & downloadable





( Tài liệu từ Quân Sử Không Quân VNCH )


Liên Ðoàn Người Nhái
(Bài này tặng Navy_Seal)<o:p></o:p>
<!--[if !supportEmptyParas]--> <!--[endif]--><o:p></o:p>
<o:p></o:p>
<!--[if !supportEmptyParas]--> <!--[endif]--><o:p></o:p>
Như mọi người đều biết lịch sử Việt Nam có kể rằng khi xưa chúng ta có người nhái Yết Kiêu nổi tiếng vì đã làm cho quân Tàu thất điên bát đảo trong các trận trên sông Lô, sông Bạch Ðằng v.v... Suốt trong thời gian đô hộ của người Pháp, Hải Quân Pháp chưa bao giờ đào tạo người nhái Hải Quân, vì vạạy ít có ai biết người Nhái là gì và hoạt động của họ ra sao. Ngay cả thời kỳ đầu tiên Quân Ðội Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam họ cũng chưa chịu cho Việt Nam gởi nhân viên sang Hoa Kỳ thụ huấn về ngành này. <o:p></o:p>
Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và Tổng Thống Tuởng Giới Thạch nguyên là hai người bạn chí thân. Nhân dịp thăm viếng Ðài Loan của Tổng Thống Diệm vào đầu năm 1960, Người Nhái Ðài Loan đã biểu diễễn cho Tổng Thống Diệm và phái đoàn tháp tùng xem những ngón nghề đặc biệt của họ tại bờ biển Cao Sùng. Sau khi đã chứng kiến cuộc thao diễn. Tổng Thống Diệm đã hết sức thích thú, ông quay sang hỏi Hải Quân Thiếu tá Lâm Ngươn Tánh, "Hải Quân Việt Nam đã có cái ni không ?". Ông Tánh trả lời, "Dạ thưa Tổng Thống không có". Tổng Thống Diệm bèn xoay qua nói với vị Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Ðài Loan, "Sau khi về nước thế nào tôi cũng gửi một số người qua Ðài Loan nhờ các ông huấn luyện dùm về ngành này". Vị Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Ðài Loan vui vẻ nhận lời. <o:p></o:p>
Hải Quân Trung tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã nhận được chỉ thị của Tổng Thống Diệm lo tuyển mộ nhân viên đủ sức khỏe và bơi lội giỏi để gửi đi du học Ðài Loan. Trong một buổi sáng đẹp trời tôi được lệnh trình diện Trung tá Quyền ngay lập tức. Ông Quyền bảo tôi, "Anh lội giỏi, tôi sẽ gửi anh qua Ðài Loan học Nguời Nhái". Tôi nghe được đi Ðài Loan học Người Nhái thì rất ngạc nhiên vì không biết người nhái là cái gì. Nhưng nghe nói được đi học thì cũng khoái chí nên nhận lời. <o:p></o:p>
Vào tháng 7 năm 1960, chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa gửi một toán người lên đường du học Ðài Loan trong đó có 8 người gốc Hải Quân, trong đó có ông Lâm Nhựt Ninh, 5 người gốc Ðịa Phương Quân và 3 người gốc Lực lượng Ðặc Biệt 77, tổng cộng là 16 người, gồm 2 Sĩ Quan, 14 Hạ Sĩ Quan và Ðoàn viên. Sau 5 tháng huấn luyện tại Cao Sùng, Ðài Loan, có 14 người trúng tuyển và 2 người rớt vì thể lực yếu kém. <o:p></o:p>
Hai tháng sau khi mãn khóa ở Ðài Loan về, Hải Quân Việt Nam có tổ chức một cuộc thao diễn ở Vũng Tàu để Tổng Thống Diệm duyệt khán. Báo chí dạo đó đã loan tin đầy đủ về cuộc biểu diễn của Người Nhái này. <o:p></o:p>
Mặc dầu Hải Quân Hoa Kỳ chưa chấp thuận huấn luyện Người Nhái cho Hải Quân Việt Nam tại Hoa Kỳ, nhưng sau khi họ được biết có một số nhân viên đã được huấn luyện ở Ðài Loan về thì họ khai thác ngay. Hải Quân Hoa Kỳ đã gửi nhân viên và dụng cụ Người Nhái từ Hoa Kỳ sang để huấn luyện bổ túc cho 8 ngườ nhái của Hải Quân Việt Nam và 3 người của Lực lượng Ðặc Biệt 77 trong hai tháng tại Nha Trang. Mục đích của cuộc huấn luyện này là để học cách đột kích phá hoại các chiến hạm cuả hải quân của Bắc Việt tại miền Bắc. <o:p></o:p>
Trong lần đầu tiên bí mật đột kích phá hoại tại Hòn Cọp, Bắc Việt, toán Người Nhái đã được chia làm 2 tổ, mỗi tổ 2 người. Họ xuất phát từ Ðà Nẳng bằng ghe Hải Thuyền trong một đêm tối trời vượt sông Bến Hải tiến tới Hòn Cọp với dụng cụ lặn và mìn từ tính nổ chậm. Tổ thứ nhất của Hải Quân là anh Lê Văn Kinh và Nguyển Hữu Thảo, tổ thứ nhì thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt 77 với các anh Nguyễn Văn Tâm và Lê Văn Chuyên. Trong khi đặt mìn vào tàu của Bắc Việt không hiểu lý do nào, mìn nổ quá sớm trong lúc các Người Nhái đang trên đường lội ra khơi để rút lui. Vì lý do đó mà họ bị phát giác, anh Lê Văn Kinh bị bắt, còn 3 người kia không chịu đầu hàng bắn vào quân Bắc Việt và đã bị sát hại ngay tại trận. Sau đó độ một tuần lễ, trong một buổi phát thanh đã nói rằng, "Một thanh niên vạm vỡ miền Nam ra trước tòa án nhân dân khai rằng...". Ðó là anh Lê Văn Kinh, tòa án VC xử khổ sai chung thân và nghe nói anh được phóng thích vào năm 1980 và trở về miền Nam với một chân bị tàn phế vì bị tra tấn bằng điện. <o:p></o:p>
Năm 1961 Người Nhái Hải Quân Việt Nam với sự hợp tác của Người Nhái Hoa Kỳ đã huấn luyện một khóa Biệt Hải tại Ðà Nẵng với 35 khóa sinh. Năm 1963 Khóa I Người Nhái tại Nha Trang được khai giảng với 41 người đều tốt nghiệp. Khóa II Người Nhái cũng được tổ chức tại Nha Trang vào năm 1965 với 48 người tốt nghiệp. Khóa III Người Nhái được tổ chức tại Vũng Tàu với 45 người tốt nghiệp vào năm 1968. Sau đó Khóa IV - V - VI được tổ chức tại Cam Ranh với tổng số khóa sinh thụ huấn khoảng 150 người cho cả ba khóa. <o:p></o:p>
Năm 1970 vì sự thiếu hụt trầm trọng của Sĩ Quan Người Nhái cho nên Bộ Tổng Tham Mưu đã chấp thuận cho Liên Ðội Người Nhái đến Trường Bộ Binh Thủ Ðức để tuyển mộ. 20 sĩ quan bộ binh đã được tuyển mộ, họ được gửi đến Trường Anh Ngữ Quân Ðội học tiếng Anh và sau đó được Hải Quân Hoa Kỳ gửi đi thụ huấn khóa đặc biệt Người Nhái SEAL (Sea, Air and Land). Trong số 20 sĩ quan chỉ có 11 người tốt nghiệp và sau khi về Việt Nam chiến đấu một thời gian, hơn phân nửa đã tử trận. <o:p></o:p>
Năm 1968 Hoa Kỳ đã chấp thuận cho Hải Quân Việt Nam gửi sĩ quan và nhân viên đến Mỹ va Phi Luật Tân để thụ huấn về các khóa như trục vớt (salvage) chuyên vớt các tàu chìm; khóa tháo gỡ chất nổ EOD (explosive ordinance disposal), chuyên tháo gỡ chất nổ và bảo vệ các chiến hạm đậu và neo trong các sông rạch và các hải cảng, chống Người Nhái địch đặt mìn phá hoại; khóa UDT (Under water demolition team) chuyên phá hủy các chướng ngại vật tại các bờ biển và hải cảng cũng như đặt mìn phá tàu địch. <o:p></o:p>
Kể từ ngày có ba đơn vị được thành lập vào năm 1970 thì Liên Ðội Người Nhái được đổi danh hiệu là Liên Ðoàn Người Nhái. Do đó Liên Ðoàn Người Nhái có ba đơn vị chính thức và mỗi đơn vị chịu trách nhiệm hoạt động theo những ngành chuyên môn riêng biệt của họ. <o:p></o:p>
Ðơn vị Hải Kích SEAL (Sea, Air and Land) chuyền về đột kích bất thần vào các sào huyệt của địch, đơn vị này đã tạo được rất nhiều chiến công oanh liệt. Họ đã tấn công chớp nhoáng vào các mật khu của địch, nhất là trong lúc có buổi hợp mặt của các cán bộ cao cấp của địch, Họ đã đánh và giải thoát các tù binh. Họ đã ngụy trang với quần áo bà ba đen và trang bị súng AK 47, đội nón cối, đi dép Bình Trị Thiên giống hệt như quân Việt Cộng để hoạt động trong lòng đất địch. Nhiều khi họ đã len lỏi vào hàng ngũ địch, ngồi ăn cơm với chúng mà chúng không biết. Ðã nhiều lần họ đột kích bí mật vào lãnh thổ miền Bắc bằng xuồng cao su và bơi từ ngoài khơi vào bờ. Trong thời gian cuộc chiến Việt Nam kéo dài đơn vị này đã làm cho Việt Cộng ăn không ngon, ngủ không yên, vì không còn biết đâu là nơi an toàn. <o:p></o:p>
Miền Nam nước Việt có nhiều sông rạch vì vậy Việt Cộng lúc nào cũng tìm cách làm tắc nghẹn các thủy lộ của chúng ta bằng cách đánh chìm tàu bè của chúng ta để cản trở sự lưu thông bằng đường thủy. Vì vậy mỗi lần có tàu chìm ở đâu là Ðơn vị Trục Vớt được cấp thời phái tới để giải tỏa lưu thông. Ðơn vị này đòi hỏi người chỉ huy phải giỏi tính toán, biết nhiều vê kỹ thuật và có nhiều kinh nghiệm. <o:p></o:p>
Vào năm 1968 cho tới khi chấm dứt chiến tranh Việt Cộng tăng cường phá hoại bằng cách thả Người Nhái đột kích phá hoại các tàu bè của ta và Ðồng Minh neo và đậu tại các bến, và trong các sông ngòi. Ðơn vị Tháo Gỡ Chất Nổ (EOD) đã hoạt động chống Người Nhái địch một cách rất hữu hiệu. Họ đã bắt sống và tiêu diệt nhiều Người Nhái địch và tháo gỡ nhiều trái mìn nổ chậm do Người Nhái Việt Cộng đặt vào tàu bè của ta. <o:p></o:p>
Tóm lại để trở thành một Người Nhái? Phải có đầy đủ sức khỏe, phải lội ít nhất là 2 hải lý, và có đủ sức khỏe để chịu đựng bền bỉ suốt 18 tuần lễ huấn luyện cơ thể và tinh thần. <o:p></o:p>
Những môn huấn luyện chánh thức gồm có: bơi lội, thể dục, chạy bộ, cận chiến, mưu sinh, nhảy dù, chất nổ, thám sát bờ biển, phá hủy chướng ngại vật, đột kích, chèo thuyền cao su, lặn sâu 130 bộ Anh. Trong 18 tuần lễ huấn luyện này đặc biệt có một tuần lễ được mệnh danh là tuần lễ "địa ngục" (hell week). Tuần lễ này là tuần lễ thứ ba và bắt đầu từ 8 giờ sáng thứ hai và chấm dứt vào 4 giờ chiếu thứ sáu. Nói vế tuần lễ này thì đọc giả phải cố gắng hình dung ra đời sống ở địa ngục so với đời sống ở trần gian. Suốt cả tuần lễ khóa sinh được ăn nhưng không được ngủ. Suốt này bị bắt buộc chạy bộ, bơi lội, chèo thuyền v.v... Huấn luyện viên quấy rầy và hành hạ thân thể khóa sinh tới mức tối đa và không ngưng giây phút nào. Suốt cả tuần lễ mặc dầu được cho ăn nhưng không ai ăn uống gì được cả vì quá mệt mỏi. Mỗi bữa ăn chỉ giỏi lắm là ăn được hai miếng là cùng. Phần nhiều khóa sinh chỉ lấy một múi cam hay chanh để bỏ vào miệng ngậm cho đở đói khát rồi mau mau rời bàn ăn để đi tìm chỗ ngả lưng một tí. Nhưng khi vừa nằm xuống chưa đầy một phút là nghe tiếng còi ré lên và phải chạy ngay đến chỗ tập họp. Tất cả phải vội vã đến cho nhanh chóng vì mỗi lần trễ là phải bị phạt ít lắm là 50 cái "hít đất". Tôi còn nhớ trước tuần lễ Ðịa Ngục một ngày, ông xếp nhà bếp có đi hỏi từng người một là muốn ăn món gì để họ nấu. Người thì đòi ăn tôm hùm, người thì đòi ăn "beef steak" v.v..., toàn là những món cao lương mỹ vị, nhưng khi tới bữa ăn thì chỉ có nước ngồi mà ngó những món ăn ngon lành đã dọn sẵn nhưng chẳng ai thèm đụng tới. Nội trong tuần lễ này có độ 50 đến 60 phần trăm khoá sinh bị loại, vì không chịu đựng nổi sự hành hạ thể xác cũng như tinh thần. <o:p></o:p>
Tôi còn nhớ một tác động mạnh về tâm lý mà các huấn luyện viên đã dạy cho khóa sinh như sau: Một hôm nọ, tất cả khóa sinh được dẫn cả ra bờ biển, cho chạy trên cát nóng độ gần 3 tiếng đồng hồ. Dĩ nhiên là cả bọn mệt lả. Sau đó họ dẫn tất cả về trường và tập họp lại. Ông Ðại úy Chỉ huy trưởng hỏi mọi người: "có ai mệt không?" Tất cả đều im lặng, ngoại trừ một khóa sinh dơ tay lên nói: "Tôi mệt!". Ngay khi đó vị Ðại úy ra lệnh giải tán tất cả vào trong nghỉ, và dẫn một mình anh khóa sinh dơ tay ra bãi biển và bắt chạy tiếp 2 giờ nữa cho đến khi anh ta chạy không nổi nữa mới cho về trường. Sau khi tập hợp cả lớp lại ông Ðại úy đã giảng một bài học về tâm lý như sau: "Tôi dư biết tất cả các anh mệt, sức con người có hạn. Nhưng có một điều quan trọng mà các anh phải luôn luôn nhớ là dù có mệt mỏi về thể xác đến đâu đi nữa thì tinh thần của chúng ta không được mệt mỏi, như vậạy đừng bao giờ nói đến mệt cả. Khi nào đuối sức hoặc bị thất bại ê chề đừng gục đầu xuống, hãy cố gắng ngửng đầu lên và nở nụ cười". Kể từ ngày đó và suốt đời tôi không bao giờ quên câu chuyện này. Nếu có ai hỏi tôi "Anh có mệt không?" lúc nào tôi cũng nói là không. <o:p></o:p>
Về số thương vong và tổn thất vì bị thương của Liên Ðoàn Người Nhái lúc nào cũng cao so với khóa sinh tốt nghiệp. Do đó không thể đầy đủ khóa sinh để cung ứng cho sự thiếu hụt tại các đơn vị. Việc đào tạo Người Nhái lại càng ngày càng khó khăn vì nguy hiểm và đòi hỏi quá nhiều yếu tố. Vì thế trong các khóa huấn luyện sau này số người tình nguyện tham gia rất hiếm. <o:p></o:p>
Sau khi chấm dứt chiến cuộc chỉ còn độ 40 phần trăm Người Nhái sống sót. Trong số này một phần ba được di tản qua Hoa Kỳ. Số còn lại hiện đang được Việt Cộng khai thác bằng cách bắt họ làm huấn luyện viên cho các khóa Người Nhái đang được tổ chức tại Việt Nam.

***********************
Tưởng Niệm Vị Tướng của Mùa Hè Đỏ Lửa 1972



Tháng 8, 1969: Trong một buổi thuyết trình dành riêng cho đại sứ Hoa Kỳ ở Lào, G. McMurtrie Godley, Ðại Tướng Tư Lệnh của cơ quan MACV, Creighton Abrams, nói về tình hình quân sự và tình hình của các đơn vị chủ lực của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Về Vùng 1, tướng Abrams nói, "Chúng ta có Sư Đoàn 1 ở đây. Sư đoàn này có 17 tiểu đoàn tác chiến. Đây là sư đoàn loại hạng nhất; sư đoàn có những quân nhân thượng thặng trên cả nước. Đơn vị có cấp chỉ huy giỏi, từ tiểu đoàn trưởng cho đến tư lệnh sư đoàn. Người tư lệnh sư đoàn -- tôi không nghĩ quân đội VNCH có một người tư lệnh như ông ta; giỏi về chiến thuật; một người dẫn đầu làm gương.
Hơn một năm sau, tháng 10 năm 1970, trong buổi thuyết trình dành riêng cho giám đốc CIA, Richard Helms, đại tướng tư lệnh phó MACV, Frederick Weyand, nói, Trưởng ... tôi không cần phải nói nhiều về ông ta vì khả năng của ông đã được biết. Từng là Tư Lệnh Sư Đoàn 1, nếu nói về cấp số quân, ông ta đã chỉ huy hơn hai sư đoàn... Lâu nay ông đã chứng tỏ được khả năng chỉ huy; không ai lung lay ông được. Từ lúc xuống coi Vùng 4, với cá tính năng động, ông đã đề ra những kế hoạch ưu tiên phải thực hiện. Ông đã đem lại nhiều phấn khởi cho Vann [John Paul Vann, chỉ huy trưởng Xây Dựng và Phát Triển Nông Thôn, Vùng 4] và McCrown [Thiếu Tướng Hal D. McCrown, cố vấn trưởng Vùng 4] ngoài sức tưởng tượng.
Người chỉ huy trưởng Sư Đoàn 1 Bộ Binh và vị Tư Lệnh Quân Đoàn 4 được nhắc đến, là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, cựu tư lệnh Quân Đoàn 4, và sau đó, Quân Đoàn 1. Tướng Trưởng đã từ trần ngày 22 tháng 1, 2007, tại Fairfax, Virginia, hưởng thọ 77 tuổi.
Lời bình phẩm của hai vị tướng Abrams và Weyand, là hai trong nhiều lời bình phẩm và khen ngợi về khả năng chỉ huy của tướng Trưởng, đến từ nhiều sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ trong thời gian họ phục vụ ở Việt Nam. Một trong những lời ca tụng cao quý nhất dành cho tướng Trưởng đến từ Tham Mưu Trưởng Liên Quân Earl G.Wheeler. Tháng 7, 1969, trong cao điểm của chương trình Việt Nam Hóa, tướng Wheeler đến Việt Nam thăm viếng và hội thảo với đại tướng Cao Văn Viên


Khi nói về chương trình gia tăng quân số cho quân đội VNCH, tướng Wheeler nói ý nghĩ của ông với tướng Viên: cách gia tăng nhanh chóng sự hữu hiệu của quân đội VNCH là không phải tạo ta thêm nhiều đơn vị mới, mà là tạo thêm ra nhiều anh hùng trong đơn vị. Giống như ở Sư Đoàn 1, một sư đoàn đang hoạt động rất hữu hiệu. Cái quý trọng đáng nói về những lời khen ngợi này, là tất cả cuộc đối thoại nói về tướng Trưởng đều xảy trong vòng bí mật giữa các tướng lãnh cao cấp Hoa Kỳ; họ nói về tướng Trưởng trong vòng kín đáo riêng tư chứ không phải những lời khen thưởng, khích lệ tinh thần ngoài công cộng. Đó là vinh dự cho một vị tướng mà theo lời của Ðại Tướng Norman Schwarzkopf, người đã gọi tướng Trưởng là bậc thầy, không cao lớn, không đẹp trai... không có vẽ gì là một thiên tài quân sự.

Ngô Quang Trưởng sanh ngày 19-12-1929, tại Giao Thanh, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình được coi là khá giả ở miền Nam. Sau khi hoàn tất bậc trung học ở trường Trung Học Mỹ Tho, ông gia nhập trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ra trường tháng 6 năm 1954, tân thiếu úy Ngô Quang Trưởng đậu hạng 162 trên 1148 tân sĩ quan của Khóa 4. Khóa 4 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức (ra trường cùng thời gian với khóa 10 trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt) là một trong những khóa sĩ quan đông nhất và đào tạo nhiều sĩ quan sau này là rường cột của QLVNCH. Cùng khóa 4 với tướng Trưởng là các tướng Bùi Thế Lân, Lê Quang Lưỡng, Hồ Trung Hậu, Nguyễn Văn Điềm, Vũ Văn Giai. Những người bạn cùng khóa còn lại là những sĩ quan chỉ huy trưởng quan trọng của các sư đoàn, lữ đoàn, như Nguyễn Trọng Bảo, Liêu Quang Nghĩa, Tôn Thất Soạn, Nguyễn Thu Lương, Nguyễn Thế Lương, Hoàng Tích Thông, Lê Cảnh Dị, Phạm Hy Mai, Nguyễn Viết Cần. Một số những sĩ quan nói trên hoặc đã hy sinh vì tổ quốc, hoặc đã trải qua một thời gian dài đầy cay đắng trong lao tù Cộng Sản chỉ vì có tội trung thành với tổ quốc của họ.

Ra trường, tướng Trưởng chọn binh chủng Nhảy Dù, và được chỉ định về phục vụ ở Tiểu Ðoàn 5, tiểu đoàn mà chưa đến một năm trước đó đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, tiểu đoàn của Ðại Úy Phạm Văn Phú, của những đồi Eliane, Dominique, ở Điện Biên Phủ. Trừ cấp bực đại úy được chánh phủ thăng thưởng chung cho nhiều sĩ quan có thâm niên quân vụ đến thời gian đó (1 tháng 11,1961), tất cả cấp bực về sau, tướng Trưởng được đặc cách ngoài mặt trận, hay được đính thân tư lệnh chiến trường, tư lệnh quân đội, vinh thăng. Vinh quang đầu tiên của tướng Trưởng xảy ra vào cuối tháng 2 năm 1964, khi Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù đánh vào mật khu Đỗ Xá (Đỗ Xá là một địa danh nằm ngay biên giới của ba tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Tín và Kontum), ở Vùng 1. Với chiến thắng này, cố đại tướng Đỗ Cao Trí (lúc thiếu tướng Trí coi Vùng 1) đích thân đặc cách thiếu tá nhiệm chức cho ông Trưởng. Đầu tháng 6-1964, ông Trưởng được lên thiếu tá thực thụ, một cấp bực rất hiếm trong những năm đó cho một sĩ quan với mười năm quân vụ.
Sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11, năm 1963, trong khi thủ đô Sài Gòn sôi sục với những biến động chính trị, thì những người quân nhân thuần túy vẫn thi hành nhiệm vụ của họ ở chiến trường. Hoạt động của Cộng Sản gia tăng mạnh. Với những yểm trợ vũ khí và huấn luyện của các đơn vị chánh quy xâm nhập từ miền Bắc vào, Việt Cộng bây giờ đã có đủ quân và vũ khí để đánh cấp trung đoàn nếu không nói là sư đoàn. <o:p></o:p>
Cuối năm 1964 đầu năm 1965, sau khi phục kích và đánh thiệt hại hơn ba phần tư Tiểu Ðoàn 4 TQLC và một tiểu đoàn Biệt Động Quân ở Bình Giả, Phước Tuy, Cộng Sản tụ quân lại chung quanh địa cứ đó để biểu dương lực lượng. Bộ Tổng Tham Mưu lập tức khởi động chiến dịch Nguyễn Văn Nho, cho hai tiểu đoàn Nhảy Dù, ba tiểu đoàn TQLC và một chi đoàn thiết giáp trở lại Bình Giả truy lùng các đơn vị Cộng Sản. Nhưng khi thấy lực lượng hùng hậu đó, các đơn vị Cộng Sản lẫn tránh giao tranh. <o:p></o:p>
Nhưng cùng lúc, theo tin tức tình báo đến từ Thiếu Tá Lê Đức Đạt, tỉnh trưởng Phước Tuy, Cộng Sản sẽ đem ba cố vấn Mỹ mà họ bắt được trong trận Bình Giả trước đó, diễn hành như một chiến thắng cho dân chúng địa phương coi (trong trận Bình Giả, Hoa Kỳ có 5 tử trận, 8 bị thương, và 3 mất tích). Tin tức này cũng được MACV xác nhận: MACV cho biết máy bay thám thính xử dụng hồng ngoại tuyến đã chấm được tọa độ đóng quân của Cộng Sản ở chung quanh xã Bình Giả và Hắc Dịch (Bình Giả, Bình Ba, Ngãi Giao và Hắc Dịch, là bốn xã tạo thành Tổng Cơ Trạch. Tổng là một đơn vị hành chánh cho một vài vùng lúc đó. Có nhiều sách địa lý gọi là Hác Dịch).
Với tin tức cung cấp, Sài Gòn quyết định trở lại truy lùng các đơn vị còn lẩn quẩn chung Bình Giả thêm một lần nữa. Lần này lực lượng tấn công là ba tiểu đoàn Nhảy Dù. Ngày 9 tháng 2-1965, Tiểu Ðoàn 5 của Ngô Quang Trưởng, Tiểu Ðoàn 6 của Vũ Thế Quang, và Tiểu Ðoàn 7 của Ngô Xuân Nghị, nhảy vào Hắc Dịch. Tiểu Ðoàn 5 và 6 là lực lượng chánh tấn công, Tiểu Ðoàn 7 đi sau lưng để yểm trợ và chận không cho các đơn vị Cộng Sản thoát ra Liên Tỉnh Lộ 15.



Theo Ðại Tá Nguyễn Thu Lương kể lại (lúc đó ông Lương là đại úy đại đội trưởng tham dự cuộc hành quân) khi Tiểu Ðoàn 5 đã nhận ra và tiến về mục tiêu là một ngôi làng có tên là Phước Chi, Cộng Sản cho đốt rừng tre và cỏ tranh trước mặt hướng tiến quân. Họ hy vọng khi lính Nhảy Dù thấy lửa cháy trước mặt thì sẽ quay đầu lại tìm hướng khác tấn công và Việt Cộng sẽ bất ngờ phục kích khi lính Tiểu Ðoàn 5 đi ngược lại. Nhưng tiểu đoàn trưởng Ngô Quang Trưởng không cho lính quay lại: ông ra lệnh xung phong thẳng qua thế hỏa công của địch, đánh thẳng vào bộ chỉ huy Cộng Sản trước mặt, ở phía sau đám lửa đốt ngụy công đó. Và kết quả của trận chiến? Theo tiểu đoàn trưởng Vũ Thế Quang, ông Trưởng đã đánh một trận để đời, đánh tan lực lượng Việt Cộng ở Hắc Dịch. Và tên ông Trưởng được nhắc đến nhiều từ trận đó.
Theo báo chí Hoa Kỳ tường trình lại, trong trận này, tướng Truởng và lính Tiểu Ðoàn 5 Dù đã cứu được vị đại úy Mỹ cố vấn tiểu đoàn. Đại Úy Thomas B. Throckmorton là con trai của Trung Tướng John L. Throckmorton, tư lệnh phó cho Ðại Tướng William Westmoreland, đương kim tư lệnh MACV. (Cũng muốn nói thêm ở đây, tướng Trưởng hình như có duyên với những sĩ quan Mỹ cố vấn cho ông: Trong thời gian ở Sư Đoàn Nhảy Dù, ba người cố vấn đều là con của tướng hay là trở thành tướng của quân đội về sau. Sau Ðại Úy Throckmorton và Thiếu Tá Schwarzkopf. Thân phụ của Schawarzkopf là chuẩn tướng; và chính ông thì trở thành đại tướng. Sau Schwarzkopf là Thiếu Tá Guy S. Meloy, III. Cha của Meloy lúc đó là đại tướng ở Mỹ. Và Meloy sau này cũng trở thành một vị tướng, coi Sư Đoàn 82 Nhảy Dù trước khi về hưu.).
Nhưng cũng theo Ðại Tá Quang, chiến thắng của Nhảy Dù, của Tiểu Ðoàn 5, không được báo chí loan tin, hay nhắc đến rầm rộ, vì những biến động chính trị ở Sài Gòn đã lấy đi tất cả sự chú ý lúc đó. Nhận định và quan sát của Ðại Tá Quang về chiến thắng bị bỏ quên của tướng Trưởng không xa sự thật. Tháng 2 của năm 1965 là một tháng đầy biến động ở miền Nam: Tướng Nguyễn Khánh vừa bị Hội Đồng Quân Nhân hạ bệ và muốn ông ta rời khỏi Việt Nam. Nội các của thủ tướng Trần Văn Hương thay đổi nhân sự tới lui và có thể bị thay thế. Năm 1964-65 là năm mà Trung Úy TQLC Trần Ngọc Toàn, người đã thoát chết trong trận Bình Giả, gọi là năm của những sĩ quan cao cấp ngồi ở nhà tranh luận và bảo vệ vị thế chính trị cá nhân, trong khi các sĩ quan cấp nhỏ thì đang chết ở chiến trường bảo vệ họ.
Năm 1964-65 có nhiều đảo chánh, hay tin đồn đảo chánh, đến độ tác giả Nhảy Dù Phan Nhật Nam, khi cho người lính trong trung đội vắng mặt một chút, nhưng căn dặn phải trở lại đơn vị ngay khi nghe nhạc đảo chánh trổi lên trên đài phát thanh. Trong khi tờ tường trình về chiến thắng Hắc Dịch chưa kịp gởi về Hoa Thịnh Đốn, thì Hoa Thịnh Đốn đã quan tâm, lo lắng, về những thiệt hại ở trận Bình Giả, và họ chuẩn bị gởi quân tác chiến qua Việt Nam, dựa vào tờ tường trình của CIA gởi về Hoa Thịnh Đốn hai tuần trước. Nhưng cũng có thể, trong tuần lễ thứ nhì của tháng 2 năm đó, quân đôi VNCH đang hân hoan về một chiến thắng khác lớn hơn, quan trọng hơn: ngày 16 tháng 2, ở Vũng Rô, Phú Yên, Không Quân VNCH đã đánh chìm một chiếc tàu sắt, chở hàng trăm tấn vũ khí từ miền Bắc vào tiếp tế cho Cộng Sản ở miền Nam. Với số vũ khí tịch thu được ở Vũng Rô, sự quên lãng của báo chí về trận Hắc Dịch có thể hiểu được.
Chưa nhạt mùi thuốc súng ở Vùng 3, tháng 3-1965, tướng Trưởng đem tiểu đoàn trở lại Vùng 1 đánh trận Thăng Bình. Chiến thắng ở Thăng Bình có sự quan sát của một sĩ quan sau này trở thành đại tướng: Norman Schwarzkopf. Tướng Schwarzkopf lúc đó là thiếu tá cố vấn của tiểu đoàn. Hai mươi năm sau, sau khi cuộc chiến đã tàn; miền Nam đã thất thủ, tướng Schwarzkopf vẫn không quên ấn tượng ông thấy, và bài học ông học được về lối điều binh của tướng Trưởng. Năm 1995 khi tướng Schwarzkopf trở lại Việt Nam thăm chiến trường cũ, ông có thực hiện một chương trình truyền hình cho một hãng thông tấn.
Chiếu lại địa hình của trận Thăng Bình ông nói, khi tiểu đoàn lọt vào địa cứ của Cộng Sản, quân địch tràn ra đánh. Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù, tuy bị thiệt hại, nhưng họ chấp nhận và tiếp tục xung phong và chiếm được mục tiêu. Lính của tướng Trưởng đánh như để thử thách đối phương; để chứng tỏ họ không sợ đối phương (trong trận này, y sĩ tiểu đoàn là bác sĩ Đỗ Vinh bị tử trận. Bệnh viện Nhảy Dù Đỗ Vinh là tên của vị y sĩ này). Nhưng sự khâm phục của một vị tướng tương lai không quan trọng bằng sự hài lòng của một vị tướng đang quan sát mặt trận: Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi đang là tư lệnh Vùng 1. Với tiểu đoàn chiến thắng là tiểu đoàn cũ của mình 10 năm trước (tướng Thi coi Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù vào tháng 5-1955), tướng Thi đặt cách cho tướng Trưởng lên trung tá.
Lên trung tá trong những năm của thập niên 1960 là niềm vui, một sự hãnh diện, nếu người đó không còn thích làm tiểu đoàn trưởng hay thích đi tác chiến. Vào thời đó, tiểu đoàn trưởng (commandant, chef de bataillon, hay chef d'escadron) chỉ là thiếu tá. Trên thiếu tá thì phải đi tìm một việc khác! Lên trung tá, tướng Trưởng được gọi về làm tham mưu trưởng sư đoàn. Nhưng làm về tham mưu không phải là việc làm tướng Trưởng thích. Và ông để lộ ra ý nghĩ đó vài tháng sau, khi được chỉ định làm tư lệnh phó sư đoàn Nhảy Dù.



Giữa tháng 5 năm 1966 một biến cố xảy ra làm thay đổi cuộc đời của tướng Trưởng. Những biến động đồn dập ở miền Trung gây ra nhiều sự lo âu cho chính quyền trung ương Sài Gòn. Sài Gòn thay sáu vị tư lệnh Vùng 1 trong ba tháng, nhưng tình hình vẫn không thay đổi. Hội Đồng Quân Nhân quyết định dùng quân đội để tái lập trật tự. Tướng Trưởng, đang là tư lệnh phó Nhảy Dù, dưới quyền chỉ huy của tướng Cao Văn Viên và đại tá Nguyễn Ngọc Loan, đem năm tiểu đoàn Nhảy Dù và TQLC ra Vùng 1 để tái lập trật tự. Sau cuộc hành quân biểu dương thẩm quyền trung ương, tướng Trưởng được thăng chức đại tá.
Từ giai đoạn này đến ngày tướng Trưởng rời binh chủng Nhảy Dù để về làm tư lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh (BB), chúng ta không biết chuyện gì xảy ra (về các tài liệu có được). Chúng ta không biết tướng Trưởng bị hay được chỉ định thay thế chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, sau khi tướng Nhuận và một số sĩ quan cao cấp của Vùng 1 bị đưa ra hội đồng kỷ luật. Theo những người quen với tướng Trưởng kể lại, tướng Trưởng đã lưỡng lự tạm thời nhận chức tư lệnh một sư đoàn bộ binh vì ông không muốn rời màu áo của lính Nhảy Dù.
Tướng Trưởng từ Sài Gòn đi máy bay ra Huế để nhận nhiệm sở mới. Và để giới thiệu với đơn vị mới cùng người dân địa phương mình là lính Nhảy Dù, tướng Trưởng nhảy dù xuống Huế để nhận nhiệm sở. Nhưng nhảy dù biểu diễn đôi khi có nhiều rũi ro hơn là nhảy dù vào trận địa. Ngày hôm đó chắc trẻ con và dân chúng Huế ở hai bên bờ sông sẽ reo hò thích thú khi thấy một người lính Dù đáp xuống nước giữa sông Hương! Theo lời của đại tá Tôn Thất Soạn, lúc đó đang cùng Ðại Tá Nguyễn Thành Yên chỉ huy các đơn vị TQLC đang có mặt ở Huế, một chiếc thuyền máy chờ sẳn trên sông chạy đến vớt tướng Trưởng lên. Từ sông Hương, Thủy Quân Lục Chiến dùng hai xe Jeep hộ tống tướng Trưởng vào thành nội Huế để nhận chức tư lệnh đầu tiên của ông.

Trong thời gian chỉ huy Sư Đoàn 1 BB, tướng Trưởng được nhiều sĩ quan Hoa Kỳ chú ý. Trong hồi ký A Soldier Reports, tướng Westmoreland nói ông nhận được nhiều báo cáo tốt về Sư Đoàn 1 và người tư lệnh. Tướng Westmoreland đi xa hơn khi ông viết, "Nhiều tướng lãnh nói cho tôi biết họ tin vào khả năng của tướng Trưởng đến độ họ nghĩ ông có thể chi huy một sư đoàn Mỹ được." Năm 1999 khi tác giả Lewis Sorley cho ra tác phẩm A Better War, và sau đó, năm 2004, The Abrams Tapes, chúng ta mới đọc được nhiều lời bình phẩm về tướng Trưởng giữa các tướng lãnh cao cấp Mỹ ở bộ tư lệnh MACV. Lý do phải chờ những cuốn sách nói trên ra đời để biết thêm những nhận nhận định về tướng Trưởng, là vì phần lớn những nhận định xảy ra trong những cuộc đàm thoại bí mật ở MACV. Hai tác phẩm của nhà quân sử Sorley phần lớn dựa vào những tài liệu giải mật của Bộ Tư Lệnh MACV.
Tướng Trưởng được thăng chức chuẩn tướng khi về chi huy Sư Đoàn 1 BB. Sau trận Mậu Thân 1968, Tổng Thống Thiệu thăng cấp tướng cho một số tướng lãnh, một số tướng vì có công trạng, và một số tướng được thăng chức để củng cố thế lực của Tổng Thống Thiệu trong quân đội. Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng có tên trong danh sách được thăng thưởng. Tướng Trưởng mang lon thiếu tướng vào mùa thu năm 1968.
Mùa xuân năm 1970, khi quân đội VNCH chuẩn bị đánh qua Cam Bốt, trong một lần nói chuyện giữa Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng Abrams, ông Thiệu nói với tướng Abrams là ông muốn thay đổi một số tư lệnh sư đoàn và quân đoàn, và theo ý kiến của tướng Abrams thì ai xứng đáng cho những chức vụ tư lệnh mới. Đại Tướng Abrams nói ông không hiểu hay biết nhiều về tâm lý người Việt Nam. Nhưng với tất cả sự thiếu hiểu biết của một người Mỹ, ông nghĩ tướng Trưởng là người xứng đáng nhất vì đó là một vị tướng có khả năng về mọi mặt, nhất là về bình định nông thôn, một một chương trình mà chính phủ VNCH cần phải thực hiện nhanh.
Trước đó, trong một lần nói chuyện với Đại Tướng Cao Văn Viên, tướng Abrams có so sánh lối chỉ huy của tướng Trưởng với lối chỉ huy của một vị tướng tư lệnh sư đoàn khác cũng có khả năng như tướng Trưởng. Nghe xong, tướng Viên giải thích cho tướng Abrams về sự khác biệt giữa hai ông tướng: khi tướng Trưởng ra một quân lệnh nào đó, ông sẽ đích thân đi ra các cấp đơn vị từ nhỏ đến lớn để coi lệnh của ông có được thi hành không, trong khi người tướng kia thì chỉ để cho sĩ quan dưói quyền hành sự. Sau này, qua những gì sĩ quan báo cáo lại, Tướng Abrams nghĩ nhận sét của đại tướng Viên là đúng. Và sau này, vào năm 1972, khi tướng Trưởng ra chỉ huy Vùng 1, hai người cố vấn Mỹ ở quân đoàn đều thấy lối làm việc của tướng Trưởng: quân lệnh lúc nào cũng đi kèm với sự hiện diện của ông ở mọi cấp của đơn vị.
Trong khi Tổng Thống Thiệu còn đang lưỡng lự với quyết định chọn lựa các tư lệnh quân đoàn, thì một biến cố xảy đến bắt ông phải quyết định: Ngày 20 tháng 5-1970, Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư Lệnh Vùng 4 bị tử nạn trực thăng trong cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt. Tổng Thống Thiệu bổ nhiệm Thiếu Tướng Ngô Dzu thay cố tướng Thanh ở Vùng 4. Nhưng chỉ ba tháng sau, vì một lý do nào đó, Tổng Thống Thiệu đưa tướng Dzu lên coi Vùng 2, và chỉ định tướng Trưởng về Vùng 4.
Vùng 4 tương đối được yên tỉnh trong thời gian tướng Trưởng ở Vùng 4. Trong thời gian này ông đã khích động tinh thần của binh chủng Nghĩa Quân (NQ) và Địa Phương Quân (ĐQP), một binh chủng cho đến thời gian đó gần như bị bỏ quên trong cấp số của quân đội VNCH. Ông cố gắng hiện đại hóa binh chủng này, và tuyên bố, trên đường dài của cuộc chiến, Nghĩa Quân và Địa Phương Quân sẽ là lực lượng rường cột của quân đội.

Mùa hè năm 1972 chứng minh nhận định của tướng Trưởng: trong cao điểm của cuộc tổng tấn công vào miền Nam, từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 10 tháng 6, các đơn vị chủ lực của quân đội VNCH bị thiệt hại 23 ngàn quân, so với 14 ngàn của Nghĩa Quân và Địa Phương Quân. Phần lớn 14 ngàn thương vong này xảy ra ở Vùng 4. Trong thời gian ở Vùng 4, ông cũng phát động nhiều cuộc hành quân vào các chiến khu mà từ trước được coi là vùng bất khả xâm phạm của cộng quân. Đầu năm 1971, ông ra lệnh cho Trung Đoàn 33 thuộc Sư Đoàn 21, vào chiếm chiến khu U Minh Thượng và lập nhiều đồn bót ở đó. Khi đại sứ Bunker xuống viếng thăm, ông hỏi tướng Trưởng sẽ định đóng quân ở mật khu U Minh Thượng đó bao lâu. "Ở lại luôn," tướng Trưởng trả lời. Ngoài mật khu U Minh Thượng, hai Sư Đoàn 7 và 9 của quân đoàn cũng tấn công và thiết lập sự hiện diện thường trực ở các mật khu Thất Sơn, Đầm Dơi, và Đồng Tháp.
Nhưng sự bình yên của Vùng 4 không kéo dài để tướng Trưởng hưởng thụ những thành quả, hay tiếp tục thực hiện những kế hoạch mà ông dự định cho Vùng 4. Mùa xuân năm 1971 ông nghe ngóng tin tức của cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh qua Lào với nhiều lo lắng. Năm đó ông cũng rất buồn khi tiễn đưa một chỉ huy trưởng cũ ra đi vĩnh viễn: trung tướng Đỗ Cao Trí, cựu tư lệnh Nhảy Dù bị tử nạn trực thăng vào ngày 23 tháng 2-1971, trong khi chỉ huy quân của Vùng 3 đánh qua Cam Bốt lần thứ hai. Ngoài tướng Trí, ông cũng mất một số bạn bè Nhảy Dù ở Hạ Lào.
Thứ Năm, 30, tháng 3-1972, Cộng Sản Bắc Việt tấn công qua Vùng Phi Quân Sự ở Vùng 1. Vài ngày sau, các cuộc tổng tấn công cũng bắt đầu ở Vùng 2 và 3. Ở Vùng 4, cộng quân đã có nhiều hoạt động chuẩn bị cho cuộc tổng công kích từ giữa tháng 3. Theo lời tướng Trưởng kể lại, Cộng quân di chuyển Sư Đoàn 1 và chừng sáu trung đoàn đoàn độc lập khác ra khỏi căn cứ của để chuẩn bị tiến về mục tiêu.



Trong suốt tháng 4, Cộng quân tấn công vào 5, 6 tỉnh của Vùng 4, nhưng các cuộc tấn công không đủ mạnh để gây lo lắng cho quân đội VNCH như họ đang lo lắng cho ba Vùng còn lại, nhất là Vùng 1. Ngày 2 tháng 5-1972, Quảng Trị thất thủ. Ngày hôm sau, 3 tháng 5, Tổng Thống Thiệu triệu tập các tư lệnh Vùng về họp ở Dinh Độc Lập. Trong buổi họp Tổng Thống Thiệu chỉ định thiếu tướng Trưởng ra thay tướng Hoàng Xuân Lãm ở Quân Đoàn 1 với chức vụ trung-tướng tư lệnh quân đoàn. Đúng một tuần sau, Tổng Thống Thiệu chỉ định Thiếu Tướng Nguyễn Văn Toàn, đang là tư lệnh phó cho tướng Trưởng, về thay trung tướng Ngô Dzu ở Quân Đoàn 2.
Tướng Trưởng bay ra Huế cùng ngày nhận được lệnh. Khi đến Huế thì tình hình Vùng 1 đã bi quan rồi. Chúng ta có thể thay chữ bi quan bằng chữ bi đát ở đây. Ngày hôm sau, ông ra lệnh thiết lập bộ tư lệnh tiền phương của quân đoàn ở hướng bắc thành phố Huế. Đồng thời ông ra lệnh tất cả các quân nhân đang đi lạc khỏi đơn vị, hay không còn đơn vị để trở về, phải tìm cách trình diện thẩm quyền quân sự lập tức. Mọi sự bất tuân thượng lệnh sẽ bị trừng phạt ngay tại chổ.
Sau khi phân chia vùng trách nhiệm tác chiến cho các đơn vị đa được ổn định, tướng Trưởng tái huấn luyện, tái trang bị lại cho các đơn vị bị tan rã một tháng trước đó. Trong khi chờ đợi các đơn vị hoàn phục lại sức tác chiến, ông xử dụng hỏa lực của hải quân và không quân Hoa Kỳ để phá hủy các điểm tập trung quân của Cộng Sản.
Trong tháng 5, sau khi được Bộ Tổng Tham Mưu tăng viện cho hai lữ đoàn Nhảy Dù, tướng Trưởng bắt đầu chuyển từ thế phòng thủ qua thế tấn công giới hạn. Tấn công giới hạn ở đây có nghĩa là ông dùng trực thăng vận để bất thần đột kích sau lưng những đơn vị Cộng Sản. Với không vận cung cấp từ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, tướng Trưởng cho những tiểu đoàn của TQLC và Sư Đoàn 1 đột kích sau lưng địch.
Hai tiểu đoàn của Lữ Đoàn 369 được bốc vào Hải Lăng. Lữ đoàn 147 vừa đổ bộ bằng tàu lên Mỹ Thủy, vừa đổ bộ bằng trực thăng vào Cổ Lũy. Sau những lần đột kích như vậy, Thủy Quân Lục Chiến hoàn tất nhiệm vụ và trở lại tuyến bạn một cách an toàn. Cùng lúc, Sư Đoàn 1 BB bất thần nhảy vào chiếm lại căn cứ hỏa lực Bastogne, rồi từ đó chiếm lại luôn căn cứ Checkmate. Đây là hai cao điểm quan trọng bảo vệ hướng tây nam của Huế. Cuối tháng 5, Sài Gòn cho tướng Trưởng thêm Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. Như vậy Vùng 1 bây giờ có được hai sư đoàn tổng trừ bị đủ và ba sư đoàn bộ binh thiếu. Tình hình cuối tháng 5 ở Vùng 1 sáng sủa hơn hai tháng trước. Ngày 28 tháng 5, trước cửa Ngọ Môn Huế, tướng Trưởng chứng kiến người bạn cùng khoá, Đại Tá TQLC Bùi Thế Lân, được Tổng Thống Thiệu gắn cho ngôi sao chuẩn tướng trên vai. Để đáp lại sự khen thưởng đó, tướng Lân thề sẽ lấy lại Quảng Trị.
Cuối tháng 6, khi thấy mình có đủ quân và khả năng để lấy lại Quảng Trị. Ông soạn thảo một kế hoạch và trình về Sài Gòn. Cùng lúc ông cho MACV một bản sao của kế hoạch hành quân. Vài ngày sau, trước khi Sài Gòn trả lời, MACV đã trả lời, nói với ông là chưa đến lúc. MACV đề nghị ông tiếp tục đột kích và chờ một thời gian nữa.
Thất vọng vì kế hoạch không được chấp nhận, tướng Tưởng bay về Sài Gòn đích thân tường trình kế hoạch cho Tổng Thống Thiệu. Theo những gì tướng Trưởng viết lại trong tác phẩm The Easter Offensive of 1972, (Cuộc Tấn Công Mùa Phục Sinh 1972) sau khi nghe kế hoạch của ông, Tổng Thống Thiệu, cũng có thái độ như MACV, ra lệnh cho ông chờ thêm một thời gian nữa. Trong lúc này chỉ nên tấn công phá rối và đột kích như đang làm.
Bực tức trong sự yên lặng, tướng Trưởng gom bản đồ lại và bay trở về bộ tư lệnh. Sau một đêm mất ngủ, sáng sớm hôm sau ông gọi điện thoại cho Trung Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia cho Tổng Thống Thiệu. Ông nói: "Tôi sẽ không đệ trình thêm một kế hoạch nào nữa. Nếu họ muốn tôi thi hành ra sao thì nên đưa cho tôi một bản kế hoạch bằng tiếng Việt, và tôi sẽ thi hành." Những chữ nghiêng trong câu trích dẫn là do người viết đánh dấu. Người viết muốn nhấn mạnh những chữ đó, vì đây là một câu nói bí mật, khó hiểu. Phải chăng người Mỹ đã làm áp lực với Tổng Thống Thiệu và không cho tướng Trưởng đánh trong thời gian đó hay đánh theo ý của quân đội VNCH?
Qua những tài liệu của MACV được giải mật sau này, trong khoảng thời gian từ 1 đến 24 tháng 6, tình hình Vùng 1 và tên của tướng Trưởng được nhắc đến nhiều lần. Những tài liệu mật cho thấy MACV không nói gì đến kế hoạch phản công chiếm lại Quảng Trị, nhưng có vài đoạn chúng ta đọc thấy MACV và chính tướng Abrams lo ngại Quân Đoàn I không đủ quân để thực hiện một kế hoạch đầy tham vọng như vậy.
Trong tập hồ sơ giải mật do sử gia Sorley sọan thảo, và tướng Trưởng cũng ghi những chi tiết tương tự trong tác phẩm của ông, đến giữa tháng 6-1972, Quân Đoàn 1 chỉ có hai sư đoàn TQLC và Nhảy Dù là đủ cấp số và khả năng tác chiến. Các đơn vị cơ hữu còn lại của Quân Đoàn gồm ba sư đoàn Bộ Binh 1, 2, và 3, Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ, và Liên Đoàn 1 BDQ, chỉ còn một-phần-ba cấp số và khả năng tác chiến nguyên thủy. Sư Đoàn 3 chỉ còn hai tiểu đoàn tác chiến được, bốn tiểu đoàn thì đang được tái trang bị và bổ xung. Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ mất hơn 200 xe tăng và thiết vận xa, 10 tiểu đoàn pháo binh cần phải được trang bị lại 100%.
Trong một buổi họp ở MACV ngày 18 tháng 6 (hai ngày sau khi tướng Trưởng đề nghị kế họach tái chiếm Quảng Trị), một sĩ quan sau khi tường trình về tình hình các đơn vị ở Vùng 1, nói tướng Trưởng cần phải có hơn hai sư đoàn Nhảy Dù và TQLC nếu muốn tái chiếm Quảng Trị. Ông không biết số quân cần thêm đến từ đâu, nhưng phải có nếu tướng Trưởng muốn thực hiện kế hoạch hành quân.
Cũng trong buổi họp này, sĩ quan thuyết trình nói đến vấn đề tiếp liệu đạn đại bác cho Vùng 1. Đại bác 105 ly được giới hạn lại 20 quả cho một khẩu mỗi ngày, trong trường hợp cần thiết 40 quả mỗi ngày. Nếu bắt đầu chiến dịch tái chiếm Quảng Trị, pháo binh có thể xài 120 viên, và có thể 180 viên cho mỗi khẩu, mỗi ngày. Trong trường hợp đó, Hoa Kỳ có khó khăn trong việc tiếp tế. Về tướng Abrams, chúng ta đọc được sự lo ngại của ông về hỏa lực phòng không của địch, nhất là lọai hỏa tiển địa-không SA-7. MACV cho biết địch bắn 14 quả SA-7 và hủy diệt 6 phi cơ.
Tướng Abrams nói ông nhấn mạnh với tưởng Trưởng về sự nguy hiểm của lọai hỏa tiển địa-không mới, vì tướng Trưởng sẽ dùng nhiều trực thăng vận cho cuộc đổ bộ tái chiếm. (Sự lo sợ của tướng Abrams không phải không có lý. Vì chỉ một tháng sau, trong cuộc đổ bộ xuống Triệu Phong nằm trong khuôn khổ cuộc hành quân chiếm lại Quảng Trị, hai chiến trực thăng CH-53 chở quân Tiểu Đoàn 1 TQLC của Trung Tá Nguyễn Đăng Hòa bị hỏa lực phòng không địch bắn rơi. Một trong hai chiếc bị hỏa tiển SA-7 bắn nổ tung trên trời. Thiệt hại quân là hơn 100 tử thương từ hai chiếc.) Đó là tất cả những gì chúng ta biết về MACV và tướng Trưởng qua cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị. Dĩ nhiên đó là những gì đã được giải mật, những gì chưa được giải mật chúng ta chưa biết được.
Chín giờ sáng hôm sau Tổng Thống Thiệu gọi điện thoại và yêu cầu tướng Trưởng trở lại trình bày lại kế hoạch một lần nữa. Lần này Tổng Thống Thiệu chấp nhận kế hoạch hành quân tái chiếm Quảng Trị của tướng Trưởng. Hành quân Sóng Thần 72 sẽ bắt đầu ngày 28 tháng 6, 1972.
Theo tướng Trưởng, kế hoạch tái chiếm Quảng Trị rất đơn giản: từ ngày 10 đến ngày 18, trong khi hai Sư Đoàn 2 và 3 Bộ Binh ở lại lo bảo vệ và phòng thủ, Sư Đoàn 1 sẽ tấn công về hướng tây, Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đánh nhích qua sông Mỹ Chánh vài cây số thăm dò khả năng phản cự của địch.
Từ ngày 19 đến 27 tháng 6, với sự giúp đỡ của không-vận và hải-vận Mỹ, hai sư đoàn Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chến làm bộ nhảy vào Cam Lộ và Cửa Việt. Và hai ngày trước khi thật sự tiến quân, hỏa lực từ Không và Hải Quân và B-52 sẽ dọn bãi và san bằng những điểm kháng cự khả nghi. Ngày 28, Nhảy Dù đánh bên trái, mục tiêu là La Vang, Thủy Quân Lục Chiến đánh bên phải, mục tiêu là Triệu Phong. Quốc lộ 1 là trục làm chuẩn của hướng tiến quân.
Nhảy Dù là lực lượng có trách nhiệm chiếm thành Quảng Trị. Những ngày đầu của cuộc hành quân, Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đánh chậm nhưng đi được. Trừ một vài trận đụng độ mạnh cấp trung đoàn với ở những lớp phòng thủ vòng ngoài, quân Bắc Việt rút dần theo đà tiến của các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng càng đi gần về bờ sông thạnh Hãn, sức chống cự của phía Bắc Việt càng mãnh liệt hơn. Đầu tháng 7, khi quân Nhảy Dù đến ngoại ô thành phố Quảng Trị, Cộng quân từ chối rút: Cổ thành Quảng Trị là cứ điểm kháng cự cuối cùng, đến người cuối cùng, viên đạn cuối cùng, của cộng quân. Chẳng những quyết tâm tử thủ, họ còn viện quân thêm từ ngoài vào để củng cố thêm hàng phòng thủ.
Để chận đuờng tiếp liệu, tiếp quân của địch, tướng Trưởng ra lệnh cho một tiểu đoàn TQLC được trực thăng bốc vào một địa điểm ở hướng đông bắc của thành phố để ngăn chận hướng tiếp tế của Bắc quân. Nhưng TQLC bị bộ binh và thiết giáp Bắc Việt chận đứng ngay nơi họ đổ bộ. Sau khi chỉnh đốn, lính Tiểu Đoàn 1 của Trung Tá Nguyễn Đăng Hòa chẳng những bám được địa điểm đổ quân, họ còn gom địch ngược về hướng tây (về hướng Cổ Thành). Đến ngày 14, Thủy Quân Lục Chiến thành công cắt được đường 560 (đường liên lạc và tiếp tế 560) của địch. Hơn 50 ngàn quân Bắc Việt ở Quảng Trị bây giờ chờ gạo từng ngày.
Cuối tháng 7, các cuộc tấn công của Nhảy Dù hết hơi: Cách bức tường Cổ Thành Quảng Trị chừng 200 mét, Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù của đại tá Trần Quốc Lịch hết xăng. Tướng Trưởng thông cảm cho lực lượng Nhảy Dù: Những trận đánh đẩm máu ở Võ định, Tân Cảnh, ở Quân Đoàn 2 đã làm Lữ Đoàn 2 bị móp, hơn là bị móp. Cộng thêm vào đó là sự cương quyết tử thủ của cộng quân. Không cần phải nghe Sài Gòn nhắc, tướng Trưởng biết Cổ Thành bây giờ là một mục tiêu chính trị, một biểu tượng chính trị cho hai phía Việt Nam Cộng Hòa và Cộng Sản Bắc Việt ở Paris (lúc này Cộng Sản đã trở lại bàn hội nghị), ở trên đầu môi chót lưỡi của mọi người dân hai phía. Trong tác phẩm của ông, tướng Trưởng nói ông không còn chọn lựa nào khác: Đánh không vào được, hay bao vây chung quanh, hay đi vòng qua Cổ Thành chiếm các mục tiêu khác, rồi sau đó trở lại chiếm Cổ Thành trong một thời gian khác, cũng không được, cũng bị giải thích là thua. Chỉ có Cổ Thành nằm trong tay Việt Nam Cộng Hòa thì mới gọi là thắng.
Ngày 27 tháng 7-1972, tướng Trưởng thay Nhảy Dù bằng Thủy Quân Lục Chiến. Mục tiêu vẫn như cũ, chỉ thay đổi vùng trách nhiệm, tướng Trưởng viết. Nhận đuợc lệnh, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân dùng hai lữ đoàn 147 và 258 TQLC quyết tâm đánh chiếm Cổ Thành. Tám tiểu đoàn tác chiến và một tiểu đoàn pháo binh TQLC bỏ ra hơn 50 ngày để hoàn tất nhiệm vụ. Theo lời kể của Đại Tá Ngô Văn Định, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258, đến ngày 16 tháng 9, khi quốc kỳ VNCH tung bay trên kỳ đài Cổ Thành Quảng Trị thì Thủy Quân Lục Chiến đã có hơn 3,500 tử thương và hàng ngàn quân nhân khác bị thương. Với sự thiệt hại đó, câu nói "Nhất Tướng Công Thành, Vạn Cốt Khô" nói lên thật nhiều ý nghĩa.


Cuối năm 1972, cuộc chiến Việt Nam đã đến thế cờ tàn trên ván cờ chính trị quốc tế: hơn bốn tháng sau, ngày 27 tháng 1-1973, Việt Nam Cộng Hòa không còn chọn lựa nào khác hơn là ký vào hiệp định ngưng bắn, tự ký vào một bản án tử hình cho chính mình. Tuyến đầu Vùng 1 của tướng Trưởng bị áp lực thường xuyên từ mùa thu năm 1974. Không còn lo sợ không lực của Hoa Kỳ, Cộng Sản Bắc Việt rãnh tay thiết lập hệ thống tiếp liệu của họ: đường mòn Hồ Chí Minh bây giờ là một xa lộ với những quán ăn như Quán Ăn Trường Sơn. Phi trường Khe Sanh trở thành một căn cứ hỏa tiển SAM của địch. Trực thăng Bắc Việt có thể đáp ở phi trường Vĩnh Linh, bên kia bờ sông Bến Hải, để đưa các cán bộ cao cấp của họ đi thẳng vào thăm các binh trạm của binh đoàn Trường Sơn.

Tháng 7-1974, Sư Đoàn 304 đánh chiếm Nông Sơn, Thường Đức. Rất đau lòng, rất lo lắng, nhưng tướng Trưởng phải mượn hơn một lữ đoàn Nhảy Dù để giải tỏa áp lực của địch từ cao điểm 1062 đang đè xuống Đà Nẵng. Dĩ nhiên Nhảy Dù giải tỏa được cao điểm 1062. Nhưng phải tốn 500 quân chết và gần 2,000 bị thương, trận đánh lớn nhất từ sau ngày ngưng bắn. Vùng 1, trong những ngày tháng đó, chỉ ổn định được với sự hiện diện của hai sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù và TQLC.
Phước Long mất vào đầu năm 1975, Ban Mê Thuột mất, và Pleiku, Kontum bỏ ngỏ để di tản vào ngày 16 tháng 3-75. Vùng 1 và tướng Trưởng chờ một quyết định tối hậu từ Sài Gòn: Tử thủ hay rút quân về những cứ điểm để phòng ngự.
Ngày 13 tháng 3-1975, Sài Gòn gọi tướng Trưởng về để duyệt xét lại các kế hoạch phòng ngự Vùng 1. Trong buổi họp này, và cho đến ngày VNCH bị thất thủ, ai nói gì, quân lệnh ra sao, nhiệm vụ của tướng Trưởng là gì vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Chúng ta biết một chút nội dung, biết một cách gián tiếp, nhưng không ai trong cuộc trực tiếp nói rõ chuyện gì xảy ra. Chúng ta biết ngay trong buổi họp ngày 13 tháng 3-1975, Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho tướng Trưởng phải giữ Vùng 1 với số quân cơ hữu của quân đoàn và sư đoàn TQLC.
Cũng trong buổi họp này, tướng Trưởng biết Quân Đoàn I phải trả Sư Đoàn Nhảy Dù lại cho Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng ông xin Tổng Thống Thiệu cho ông giữ lại sư đoàn TQLC để dân quân có được tinh thần. Trước mặt ông, Tổng Thống Thiệu cho ông tùy nghi xử dụng Thủy Quân Lục Chiến, chỉ trả Sư Đoàn Nhảy Dù lại mà thôi.
Nhưng sau buổi họp, trong lúc nói chuyện riêng giữa ông và thủ tướng Khiêm, thủ tướng Khiêm nói hé ra là Sài Gòn có thể lấy TQLC khỏi Vùng 1. Ngày 14 tháng 3-1975, Tổng Thống Thiệu ra Nha Trang ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú di tản tất cả quân còn lại ở Kontum và Pleiku về Tuy Hòa/Nha Trang để tái trang bị và bổ xung rồi từ đó đánh ngược lên chiếm lại Ban Mê Thuột và Vùng 2.
Trở lại Quân Đoàn 1 ngày 14, tướng Trưởng thông báo quyết định của Sài Gòn cho Trung Tướng Lâm Quang Thi (Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 1). Ông nói quân đoàn sẽ được giữ lại 2 trong số 3 lữ đoàn của Thủy Quân Lục Chiến. Hai lữ đoàn TQLC sẽ về thay Nhảy Dù ở Đà Nẵng, vì Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù có thể được trưng dụng trong kế hoạch chiếm lại Ban Mê Thuột.
Ngày 18 tháng 3-1975, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm bay ra Đà Nẵng họp với tướng Trưởng (theo lời yêu cầu của tướng Trưởng) để giải quyết vấn đề đân di tản. Trong buổi nói chuyện ngày 13, tướng Trưởng xin Thủ Tướng Khiêm giúp ông giải quyết vấn đề dân di tản đang dồn về thành phố. Theo ông, dân di tản sẽ làm ứ động Quốc Lộ 1, con đường huyết mạch để chuyển quân trên toàn Vùng 1.
Ngày 19, ông được yêu cầu trở về Sài Gòn thêm một lần nữa để trình bày lại kế hoạch di tản và phòng thủ Vùng 1. Trong lần họp này, với tình hình dân chúng di tản tấp nập trên Quốc Lộ 1, tướng Trưởng nói rút quân từ Huế về Đà Nẵng trong tình trạng hỗn lọan đó sẽ khó thực hiện được. Ông đề nghị cho ông ở lại tử thủ Huế, và Huế, Đà Nẵng và Chu Lai sẽ là điểm kháng cự cuối cùng của Vùng 1. Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng Cao Văn Viên đồng ý. Tướng Trưởng bay trở lại Quân Đoàn 1 và thông báo cho Trung Tướng Lâm Quang Thi quyết định của Tổng Thống Thiệu.
Ngày hôm sau, 20 tháng 3, Tổng Thống Thiệu lên đài phát thanh đọc lời hiệu triệu, ra lệnh dân quân giữ Huế bằng mọi giá. Nhưng tối đêm đó, Tổng Thống Thiệu đổi ý: ông ra lệnh cho Bộ Tổng Tham Mưu đánh cho tướng Trưởng một quân lệnh, cho biết Sài Gòn chỉ còn đủ phương tiện để yểm trợ cho một cứ điểm kháng cự. Trong ba cứ điểm Huế, Chu Lai, Đà Nẵng, tướng Trưởng phải chọn một. Dĩ nhiên, Đà Nẵng phải là cứ điểm ưu tiên. Tướng Trưởng ra lệnh di tản về Đà Nẵng. Tướng Lâm Quang Thi, trong tác phẩm The Twenty-Five-Year Century của ông, có nói quân lệnh thay đổi như vậy, nhất là ở cấp quân đoàn thì khó làm việc, và gây thêm nhiều hoang mang cho người thừa hành. Đại tướng Frederick Weyand, đang là Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ, trong tờ tường trình cho Tổng Thống Ford sau chuyến viếng thăm ở Việt Nam cuối tháng 3-1975, cũng cho biết trong tuần lễ đó, tướng Trưởng đã nhận 3 quân lệnh trái ngược nhau từ Tổng Thống Thiệu.

Trong hoàn cảnh hỗn lọan của Đà Nẵng, ngày 25 tướng Trưởng nhận thêm một tin không vui từ Sài Gòn: đích thân Trung Tướng Lê Nguyên Khang, đang là tổng thanh tra quân đội, bay ra Đà Nẵng đưa cho tướng Trưởng một quân lệnh yêu cầu ông trả lại Sư Đoàn TQLC ngay lập tức. Tướng Trưởng phản đối. Ông nói Đà Nẵng không thể nào phòng thủ được nếu không có mặt của TQLC. Trong hai ngày 26-27, tướng Trưởng và tướng Lâm Quang Thi cố gắng san sẻ quân để lấp vào những lổ trống của vòng đay phòng thủ, càng lúc càng xiết chặt chung quanh Đà Nẵng.
Chín giờ tối ngày 27, tướng Trưởng gọi cho tướng Viên báo cáo tình hình và yêu cầu cho phép ông di tản Sư Đoàn TQLC và những trung đoàn còn lại của Sư Đoàn 1 và 3. Tướng Viên nói đó là quyết định của Tổng Thống Thiệu. Tướng Trưởng gọi Dinh Độc Lập, nhưng Tổng Thống Thiệu không có mặt. Khoảng 10 giờ đêm Tổng Thống Thiệu gọi lại. Sau khi nghe tướng Trưởng báo cáo tình hình, ông Thiệu hỏi tướng Trưởng sẽ giải quyết ra sao. Tướng Trưởng trả lời ông sẽ giải quyết theo sự biến chuyển của tình hình. Tổng Thống Thiệu cúp điện thoại. Vài phút sau tướng Trưởng ra lệnh di tản khỏi Đà Nẵng. Nhưng không, đến đó không còn di tản nữa. Vì chữ di tản có chứa đựng một khái niệm về sự thứ tự và trật tự trong lúc lui quân. Quân Bắc Việt đã cắt nát Quốc Lộ 1 ra từng đọan và đang dùng pháo binh để hăm dọa các cửa-khẩu từ biển đi vào bờ. Đến giờ phút đó, chữ bỏ có nghĩa và đúng nghĩa hơn chữ di tản. Đà Nẵng và Vùng 1 mất hai ngày sau đó. Vài ngày sau, Bắc Việt gom tất cả lực lượng của họ đang có mặt ở Vùng 1 lập ra một binh đoàn có tên là Binh Đoàn Duyên Hải. Từ đó họ tiến về Vùng 3.

Cuộc đời có nhiều nghịch lý và bi hài kịch. Tướng Ngô Quang Trưởng sanh ra và lớn lên ở Bến Tre, một vùng đất được mệnh danh là cái nôi của Cộng Sản, một nơi mà trong năm Mậu Thân 1968, một sĩ quan Hoa Kỳ tuyên bố phải tàn phá hết để xây dựng lại, nhưng ông đã xả thân chống lại những người Cộng Sản, chủ thuyết Cộng Sản, cho đến hết cuộc đời. Sanh ra ở Bến Tre, nhưng tướng Trưởng lớn lên, yêu, quí mến, và bảo vệ một vùng đất thật xa cho đến hết cuộc đời: Ông thương Quảng Trị và Thừa Thiên đến độ ông đặt tên người con trai út là Ngô Trị Thiên.
Tháng 8 năm ngoái (2006), khi được Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh chuyển lời, người viết có dịp nói chuyện với tướng Trưởng. Trong lần nói chuyện đó, với bản tính thích tìm căn nguyên của lịch sử, người viết mạo muội hỏi tướng Trưởng về thái độ của người Mỹ trong cuốc chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, hỏi về nội dung những đối thoại giữa ông và Tổng Thống Thiệu vào tháng 3-1975. Nhưng tướng Trưởng tránh không trả lời thẳng những câu hỏi đó. Ông chỉ nói "cũng không có gì để nói, tất cả đã được nói hết rồi, những gì anh em chúng ta làm trong quá khứ đều có nghĩa." Câu chuyện tiếp tục được vài phút sau thì người viết lại cố gắng lái về hai câu hỏi nguyên thủy. Lần này ông cũng tránh trả lời. Nhưng lần này ông nói cho người viết nghe về triết lý của một người quan võ Á Đông. Đại khái tướng Trưởng muốn nói đến câu "Bại Binh Chi Tướng Bất Khả Ngôn Dũng, Vong Quốc Chi Đại Phu Bất Khả Ngôn Trí." (Tướng bại trận thì không thể nói mình anh dũng. Bậc trí sĩ đại phu khi đã mất nước thì không thể nói mình có mưu lược.) Thâm thúy, thật thâm thúy.
Với tất cả sự kính trọng của một hậu sinh đối với trung tướng Ngô Quang Trưởng, người viết xin kính dâng lên vị tướng quá cố đôi dòng tưởng niệm này
.



**************************


LỜI NGƯỜI VIẾT
: Thể văn tưởng niệm và điếu văn, không cho phép người viết xử dụng lối ghi chép kiểu trích dẫn biên khảo. Nhưng, vì một vài chi tiết trong bài viết có thể đưa đến sự tranh luận. Vì khả thể đó, người viết lược ghi dưới đây những nguồn tài liệu, nhân chứng, đã cung cấp chi tiết cho bài viết này:
Chi tiết về gia đình của tướng Trưởng đến từ hai anh Nguyễn Tường Đằng và Nguyễn Tường Giang. Hai anh là em vợ của người quá cố. <o:p></o:p>
@ Thứ hạng ra trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức Khóa 4, năm 1954, và tên các người bạn đồng khóa, đến từ hồ sơ nghiên cứu về các sĩ quan VNCH, do Phòng Chính Trị tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn soạn thảo vào năm 1974. Bản lưu trữ nằm trong thư viện Texas Tech University.
@ Chi tiết các trận đánh Đỗ Xá, Bình Giả, Hắc Dịch, Thăng Bình, đến từ các Đại Tá Vũ Thế Quang, Nguyễn Thu Lương và Tôn Thất Soạn.

@ Tường trình lo ngại về khả năng của Cộng Sản sau trận Bình Giả nằm trong CIA Weekly Report/OCI No 2654/65 (declassified April-1996).

@ Tất cả những lời bình phẩm của các tướng lãnh Hoa Kỳ về tướng Trưởng nằm trong sách đã dẫn, và, Lewis Sorley, trong quyển A Better War.

@ V
chuyn MACV dùng hng ngoi tuyến đ dò đa đim đóng quân ca Vit Cng Bình Gi, nm trong The United States Air Force in Southeast Asia: The Advisory Year to 1965. Chuyn v các c vn Nhy Dù Hoa Kỳ đến t Command Sergeant Major M. Martin, Angels in Red Hats.
@ Sự nghiệp của Thiếu Tá Guy S. Meloy, III, nằm trong Charles Beckwith, Delta Force. @ Quan sát của Đại Tướng Schwarzkopf nằm trong H. Norman Schwarzkopf, It Doesn't Take a Hero.

@ Quan sát của các sĩ quan cấp nhỏ đang đánh trận đến từ Trần Ngọc Toàn The Binh Gia Front (Mặt Trận Bình Giả) và Phan Nhật Nam Dấu Binh Lửa. Trong tác phẩm Dấu Binh Lửa, tác giả Phan Nhật Nam cũng ghi lại trận Hắc Dịch mà ông đã tham dự.

@ Biến cố chính trị ở miền Trung đến từ Đoàn Thêm, Chuyện Từng Ngày.

@ Chuyện tướng Trưởng nhảy dù rớt xuống sông Hương đến từ Đại Tá Tôn Thất Soạn.

@ Trận Mùa Hè Đỏ Lửa và những cuộc hành quân liên hệ, đến từ Ngô Quang Trưởng, The Easter Offensive of 1972, Charles D. Melson trong U.S. Marines in Vietnam 1971-1973: The War That Would Not End. Đại tá Ngô Văn Định trong Tái Chiếm Cổ Thành Quảng Trị, trích trong tuyển tập, Hai Mươi Năm Chiến Trận của TQLC Việt Nam (1954-1975).

@ Con số 50 ngàn quân Cộng Sản ở mặt trận Quảng Trị đến từ sự tín toán của người viết. Tướng Đồng Sỹ Nguyên (Tư Lệnh Binh Đoàn Trường Sơn/559) trong Đường Xuyên Trường Sơn, và Tổng Cục Hậu Cần trong Lịch Sử Bộ Đội Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh, đều nhắc đến một sự kiện thiếu gạo trong thời gian họ chiến đấu ở Quảng Trị. Ở một đoạn văn cả hai sách đều nói đến năm trăm (500) tấn gạo chỉ nuôi quân được hơn một tuần. Cấp số ẩm thực của quân-nhân Cộng Sản là 3 lon (750 grams) đến 4 lon (1 kí lô) gạo một ngày. 500 tấn bằng 500,000 kí. Chia cho 10 ngày chúng ta có sức tiêu thụ 50,000 ký một ngày. Với cấp số 3 lon một ngày, chúng ta có 75 ngàn quân. Nếu 4 lon, thì con số là 50 ngàn quân. Tướng Trưởng, trong quyển The Easter OffensiveM cho biết Bắc Việt có khoảng 6 sư đoàn ở Vùng 1. Một sư đoàn Cộng Sản có từ 7,500 đến 8,500 người. Sáu sư đoàn cho ta số quân tương tự như nhu cầu ẩm thực hàng ngày của họ.

@ Tình hình Vùng 1 và sự thất thủ đến từ những đối thoại của người viết và Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, và Đại Tướng Cao Văn Viên trong The Final Collapse (Những Ngày Cuối của Việt Nam Cộng Hòa), Trung Tướng Lâm Quang Thi, The Twenty-Five-Year Century, Stephen T. Hosmer, et al., The Fall of South Vietnam: Statemens by Vietnamese Military and Civilian Leaders.

@ Tờ tường trình của Tư Lệnh Lục Quân Frederick Weyand cho Tổng Thống Gerald Ford về những quân lệnh trái ngược, nằm trong The Weyand Report, hiện lưu trữ tại The Gerald. R. Ford Presidental Library/University of Michigan.

No comments:

Post a Comment