VƯƠNG HỒNG ANH/ Việt Báo
Quân đội VNCH anh hùng. |
Lời tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm "Ngày
30-4-1975", VB trân trọng giới thiệu bài tổng
hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra trong
những ngày cuối tháng 4/1975.
Bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau
đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do
Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi
ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng
Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; một
số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các
chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt
Báo.
* Đại tướng Cao Văn Viên, những giờ cuối cùng tại
Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực VNCH
Theo lời kể của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi
lại trong Việt Nam Nhân Chứng, trước lễ bàn giao
chức vụ Tổng thống VNCH diễn ra vào buổi chiều
28/4/1975, thì vào 8 giờ sáng ngày 28 tháng 4,
Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Trần
Văn Đôn đã đến văn phòng Tổng tham mưu trưởng
như thường lệ gặp Đại tướng Cao Văn Viên để theo
dõi tình hình quân sự. (Theo tài liệu ghi trong
Quân sử VNCH, vào năm 1955, ông Trần Văn Đôn là
Thiếu tướng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu,
ông Cao Văn Viên là Thiếu tá, giữ chức vụ Trưởng
phòng 4 Bộ Tổng Tham mưu).
Trong cuộc gặp nói trên, Đại tướng Cao Văn Viên
nhắc với Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc
phòng Trần Văn Đôn rằng Tổng thống Trần Văn
Hương đã ký sắc lệnh cho ông nghỉ, do đó, ông
yêu cầu cựu Trung tướng Đôn với chức danh là
Tổng trưởng Quốc phòng, cử người thay thế. Ngay
lúc đó, có điện thoại của ông Dương Văn Minh gọi
cho Phó thủ tướng Trần Văn Đôn, dặn ông cố gắng
giữ Đại tướng Viên ở lại chức vụ Tổng Tham mưu
trưởng, đừng cho Đại tướng Viên đi.
Trước sự việc như thế, Tổng trưởng Quốc phòng
Trần Văn Đôn không biết xử sự làm sao vì Tướng
Viên đã được Tổng thống Trần Văn Hương cho nghỉ
( sắc lệnh này được Tổng thống Trần Văn Hương
công bố vào chiều ngày 28/4/1975). Cựu Trung
tướng Trần Văn Đôn hỏi Đại tướng Cao Văn Viên:
-Nếu anh đi, thì theo anh ai sẽ thay thế được?
Đại tướng Cao Văn Viên không trả lời thẳng mà
hỏi lại cựu Trung tướng Trần Văn Đôn:
-Anh sẽ làm gì ?
Cựu Trung tướng Trần Văn Đôn trả lời:
-Tôi cũng chưa quyết định. Mấy ngày trước ông
Minh và ông Mẫu muốn tôi tiếp tục giữ ghế Tổng
trưởng Quốc phòng nhưng tôi chưa trả lời, nay
ông Minh cho tôi biết Hà Nội không muốn có người
nào trong nội các cũ ở lại trong nội các mới."
Về lại văn phòng, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn
nhận được điện thoại của ông Dương Văn Minh hủy
bỏ sắc lệnh mà Tổng thống Trần Văn Hương đã ký
cho phép Đại tướng Cao Văn Viên nghỉ dài hạn
không lương, nhưng sắc lệnh đó Tổng thống Trần
Văn Hương đã ký trước khi bàn giao chức vụ Tổng
thống.
* Chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH vào
những ngày cuối tháng 4
Về chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH,
sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào
tối 21 tháng 4/1975, và sau cuộc rút quân khỏi
Xuân Lộc, Đại tướng Cao Văn Viên không còn thiết
tha với chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực
VNCH, trong khi đó, tân Tổng Thống Trần Văn
Hương lại muốn bổ nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên
làm Tổng tư lệnh Quân đội với đầy đủ quyền hạn,
so với chức vụ Tổng Tham mưu trưởng mà Đại tướng
Viên đã nắm giữ từ tháng 10/1965.
Thế nhưng, như đã trình bày ở phần trên, Đại
tướng Cao Văn Viên đã trình xin Tổng Thống Trần
Văn Hương cho ông được giải nhiệm. Tổng thống
Trần Văn Hương không đồng ý và yêu cầu Đại tướng
Viên tiếp tục giữ chức vụ. Chỉ đến khi Tổng
Thống Trần Hương trao quyền cho ông Dương Văn
Minh thì Đại tướng Cao Văn Viên mới nhận được
quyết định giải nhiệm.
Kể lại chuyện này, Đại tướng Cao Văn Viên ghi
trong hồi ký như sau: "Trước khi Tổng Thống
Hương bước xuống, Tổng Thống đưa ra một sắc lệnh
giải nhiệm tôi khỏi chức vụ Tổng Tham mưu trưởng
Bộ Tổng Tham Mưu. Đến khi tân Tổng Thống (cựu
Đại tướng Dương Văn Minh) muốn chọn người thay
thế tôi, tôi đề nghị Tướng Đồng Văn Khuyên, lúc
ấy đang giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham
mưu kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận".
* Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, những giờ cuối cùng
Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có
thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã
ra đi. Đại tướng Cao Văn Viên rời Việt Nam từ
chiều 28/4/1975 cùng với Chuẩn tướng Thọ (trưởngphòng
3); Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng
Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng
Tiếp vận rời Bộ Tổng Tham mưu từ trưa ngày
29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, được
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức vụ
Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô vào cuối tháng 3/1975,
cũng đã ra đi. ( Giữa năm 1968, Tướng Nguyễn Văn
Minh đã giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô lần
thứ 1; đến năm 1971, ông được bổ nhiệm giữ chức
vụ Tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 thay thế Trung
tướng Đỗ Cao Trí tử nạn; từ tháng 11/1973 đến
tháng 3/1975, ông lần lượt giữ các chức vụ: Chỉ
huy trưởng Trường Bộ Binh, Tổng thanh tra Quân
đội).
Trước tình trạng nhiều vị tướng lãnh đã "từ
nhiệm", tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một
số tướng lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ
trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng
Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn tướng,
đã về hưu từ tháng4/1974, làm Phụ tá Tổng tham
mưu trưởng; cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được
cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng Lê
Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2,làm Tư
lệnh phó phụ giúp Tướng Lâm Văn Phát; Chuẩn
tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công
binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội các Nguyễn Bá
Cẩn, giữ chức Tổng cụctrưởng Tiếp vận. Sau khi
nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975,
Trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu tập một cuộc họp
với các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở
lại Sài Gòn tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và
yêu cầu "mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm
việc với tất cả trách nhiệm".
Về tình hình chiến sự, từ sáng sớm ngày 30 tháng
4, tại các mặt trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa,
các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ
đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục
chiến, Biệt động quân... đều đặt trong tình
trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân.
Tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm
Văn Phát từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan
sát tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi
máy liên lạc với Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, sĩ
quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó.
Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi tuần
khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang
chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư Bảy
Hiền lên đến Hóc Môn.
Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi
Cộng quân ra khỏi Bộ Tổng Tham mưu, thì vào 10
giờ 15 phút (theo ghi nhận của cựu đại tá Phạm
Bá Hoa, nguyên Tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp Vận,
có mặt tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô sáng
30/4/1975 và nghe đài Sài Gòn vào giờ phút đó),
Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực
Việt Nam Cộng Hòa ngưng chiến. Trước đó vài phút,
chiến đoàn Biệt Cách Nhảy Dù đang tung các đợt
phản công để đánh bật địch quanh vòng đai Bộ
Tổng Tham Mưu.
Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu
Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Nhảy Dù đã lấy
xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em
binh sĩ gác cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh
Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng, đã ra đi lúc 6
giờ sáng, tất cả tướng lãnh và các đại tá đã họp
với Thiếu tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành
dinh Bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng
không còn ai.
Trước tình hình đó, Thiếu tá Tài đã bốc điện
thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ,
gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông
Hạnh hỏi Thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn
trưởng đã trả lời:
- "Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống".
Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy:
- "Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện gì đó?"
Thiếu tá Tài trình bày:
-
"Tôi
đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở
Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng bắn, nhưng
Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã liên lạc với bộ
Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói
chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao
của Quân đội để xin quyết định.
Tướng Minh trả lời:
- "Các em chuẩn bị bàn giao đi!",
Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại:
- "Bàn giao là như thế nào thưa đại tướng, có phải là đầu hàng không?"
Tướng Minh đáp:
-
"Đúng vậy, ngay bây giờ
xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập".
Nghe Tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài
nói ngay:
- "Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống".
Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp:
- "Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu."
Tướng Minh trả lời:
-
"Tùy các anh em".
Theo lời Thiếu tài Tài, sau này, khi bị CQ giam
trong trại tù, ông đã gặp Trung tá Võ Ngọc Lan,
Liên đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng thống
phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài:
- Lúc đó, moa đứng cạnh Tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống.
Thiếu tá Tài giải thích:
-
Tổng
thống là vị lãnh đạo tối cao của Quân lực, phải
cứu ông ra để có người chỉ huy quân đội.
VƯƠNG HỒNG ANH
- Sau một thời gian lâm trọng bệnh, "Người giữ khóa bí mật ở Bộ tổng tham mưu VNCH" đã ra đi tho Bác vĩnh vịễn vào cuối tháng 9/2009. Những người biết đến hắn đều không khỏi sừng sờ khi nghe tin dữ...Kẻ đã đóng góp làm sập đổ VNCH năm 75. Sau đây là tài liệu tình báo trích từ báo CSVN:
.Tại Đại sứ quán Mỹ…
9 giờ sáng, khi tiếng xích xe tăng của quân CSBV kéo sầm sầm trên đường phố Sài Gòn thì cũng là lúc chiếc máy bay di tản cuối cùng ngừng gầm rú ngay trên nóc toà đại sứ quán.
Cuộc tháo chạy tán loạn bằng trực thăng khi quân giải phóng đang tiến vào Sài Gòn ngày 30/4/1975.
Trước làn sóng quân CSBV đang tràn ngập đô thành, những người Mỹ còn lại trên mảnh đất này cũng rơi vào tình trạng hoảng loạn. Kenneth Moorefield – nguyên sĩ quan bộ binh - đã đẩy Graham Martin, vị đại sứ Mỹ vẫn còn đang trong cơn chấn động bàng hoàng, ra khỏi một trong những chiếc trực thăng cuối cùng để tự mình leo lên đó.
Cái nhìn của Moorefield về Sài Gòn giờ phút cuối thật kinh hoàng: “Hàng trăm người Việt Nam đổ ào lên những bức tường, cướp bóc kho hàng, phòng ốc, quầy bar. Một số người khác thì lái xe của sứ quán chạy lòng vòng như những kẻ điên khùng. Ở bên kia bức tường, cả đám đông người hát vang lời ca chống Mỹ, chào mừng chiến thắng đang tới gần của những người cộng sản...
Từ trên cao, tôi có thể nhìn thấy văn phòng của tuỳ viên quân sự Mỹ - DAO - ở Tân Sơn Nhứt - bốc cháy. Cả thành phố im lìm một cách đáng sợ. Chỉ toàn một màu đen đặc. Không động tĩnh, không đèn điện, không một cảm giác nào về những gì đang đến”.
Trong giờ phút nguy cấp ấy, có bao nhiêu người rời khỏi Việt Nam mà không một lần giật mình hỏi: “Điều tồi tệ có thể đến là gì? Liệu Mỹ sẽ trở lại không, trên xứ sở nắng ấm tươi đẹp này?”
Tại Bộ Tổng tham mưu của Quân đội Việt Nam Cộng Hoà (BTTM)…
41 binh sĩ đặc công biệt động Z28 (đoàn 316 đặc công) chia làm 2 mũi tiếp cận với cổng số 1 và cổng số 3. Mũi chủ công do Bảy Vĩnh (tên thật là Lê Văn Vĩnh - sẽ đề cập trong phần sau), mũi bảo đảm do Ba Đen phụ trách. Nhiệm vụ: Đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu - đầu não của quân đội Việt Nam Cộng hoà – và chờ đại quân tiến vào.
Hình ảnh xe tăng quân CS húc đổ cổng dinh Độc Lập,
6 giờ sáng, mũi do Ba Đen chỉ huy giả lính Cộng hoà, thâm nhập cổng số 1, đánh cầm chân lực lượng dù và thiết đoàn xe tăng VNCH, ngăn chặn việc chi viện cho BTTM. 2 lính BV hy sinh tại chỗ.
7 giờ sáng. Mũi do Bảy Vĩnh chỉ huy lợi dụng lực lượng bảo vệ cổng số 3 sơ hở, sử dụng 3 xe bọc thép M113 lấy được của VNCH áp sát, khống chế rồi vượt qua cổng gác, chạy thẳng vào trung tâm BTTM. Toàn bộ lực lượng VNCH giơ tay xin hàng.
9 giờ 40’, cờ VC treo cao trên cột cờ BTTM VNCH. Việc đánh chiếm BTTM từ cổng số 3 không tốn một viên đạn.
11 giờ 45’, từ một góc quan sát trong căn phòng bé tí chứa hồ sơ tại BTTM, một người đàn ông ngoài 40 tuổi cao lênh khênh, gầy mảnh khảnh vẫn lặng yên chờ. Hắn không chạy di tản như những chiến hữu khác, song cũng chẳng bỏ văn phòng thư ký của mình để tìm chỗ an thân.
Trước đó, lúc 6 giờ sáng cùng ngày, chính mắt hắn chứng kiến hình ảnh một đại tá Pháp tới báo tin cho 1 trung tá làm việc tại văn phòng Cao Văn Viên. Chỉ sau vài phút ngắn ngủi, viên trung tá cởi phăng quân phục ra, lấy súng ống quẳng vào cốp xe và chạy đi.
Một tiếng sau, Nguyễn Cao Kỳ bay trực thăng tới, vội vã đi bộ vào toà nhà chính chừng 5 - 10 phút, sau đó ra đứng chờ. Chờ một lúc thì chiếc trực thăng thứ 2 đến. Nguyễn Cao Kỳ khiêng 1 va li con cho lên máy bay. Hắn còn nhớ trước khi leo lên trực thăng bỏ chạy, Nguyễn Cao Kỳ còn không quên ngoái lại trụ sở BTTM với ánh nhìn đầy tiếc nuối.
“Anh lính quèn” và mệnh lệnh cuối cùng của thời chiến
… Sau giờ khắc mà hai miền nối lại, ngay tại chính trụ sở của Bộ Tổng tham mưu, có hai nhà tình báo của cộng sản... chạm trán nhau. Một người là sĩ quan chỉ huy cánh quân biệt động - đại tá anh hùng Bảy Vĩnh, còn người kia là anh thượng sĩ nhứt “quèn” mang bí số H3.
Người bí mật ở Bộ Tổng tham mưu VNCH đã cung cấp hàng loạt tin tình báo chiến lược, mà đến năm 2006, CIA vẫn không ngừng thắc mắc: Hắn là ai?
Lúc đụng nhau, lính cộng sản vẫn không quên dặn lại "tên địch" mà sau này họ mới hay là đồng chí của mình, rằng: “Ông ở đây coi khu vực này nghen”.
Lời dặn chỉ bấy nhiêu, nhưng người đàn ông đó đã ở lại cho tới 3 giờ chiều, khi mọi việc bàn giao xong xuôi. Hệ thống máy tính lưu trữ hồ sơ của hơn 1 triệu quân VNCH cùng toàn bộ giấy tờ tại văn phòng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên được niêm phong không mất một tờ nào.
Người đàn ông cao hơn 1m70 mà nặng chỉ ngoài 40 kg đó thậm chí còn tự đi kiếm giùm mấy tên CSBV lá cờ khác để thay, rồi lại trực tiếp trao chìa khoá, dẫn quân CS tiếp quản tất cả những gì còn lại ở cơ quan đầu não của quân đội Việt Nam Cộng hoà.
32 năm sau, trong 1 gian nhà nhỏ giữa Sài Gòn cũng vào cuối tháng 4, đại tá VC Bảy Vĩnh nhớ lại khoảnh khắc đó: "Khi tôi và anh em xông vào thì thấy 2 nhân viên văn phòng ngồi chờ. Các ngăn tủ đã được khoá kín. Tôi hỏi đường lên nóc BTTM thì một người đàn ông cao, gầy chỉ đường...".
Mãi về sau, người hỏi lối kẻ chỉ đường mới có dịp gặp nhau trong một tình huống hoàn toàn ngược lại: Cuộc gặp mặt những anh em đồng đội của Phòng tình báo chiến lược (J22) - Bộ tham mưu quân giải phóng miền Nam. Chính Bảy Vĩnh - sĩ quan chỉ huy quân biệt động khi ấy, Cụm trưởng Cụm tình báo H67 (đơn vị anh hùng) – đã nhận ra ngay người đàn ông “phe địch” mà mình gặp khi đánh chiếm BTTM.
Cả 2 người, giờ đã vào tuổi "thất thập cổ lai hy", đều cùng nghỉ ngơi với quân hàm Đại tá, "Anh hùng lực lượng vũ trang ngành tình báo quân đội Nhân dân Việt Nam", cùng sinh sống ngay tại chính thành phố mà họ đã chiến đấu.
Thiếu tướng Nguyễn Văn Khiêm, (bí danh Sáu Trí, nguyên Trưởng phòng J22) sau này còn xác nhận thêm một chi tiết thú vị nữa: "Khi tiến vào trung tâm, đồng chí Bảy Vĩnh đã gặp nội tuyến của ta, chuẩn uý văn phòng BTTM. Nội tuyến này còn động viên sỹ quan binh lính địch ra hàng".
Nhân vật nội tuyến, người đàn ông cao gầy, thượng sỹ nhất ở văn phòng BTTM... cứ được nhắc hoài đó chính là H3, người mà rất nhiều năm sau này, CIA vẫn không ngừng thắc mắc: Hắn là ai?
Kỳ 3: Tìm đôi mắt cộng sản cho anh lính cộng hoà
Cập nhật lúc 08:55, Thứ Tư, 02/05/2007 (GMT+7)
,
(VietNamNet) - Có lẽ đến giờ, những người cùng làm việc với H3 tại văn phòng Tổng tham mưu trưởng, BTTM của Quân đội Việt Nam Cộng hoà, dù giàu sức tưởng tượng bao nhiêu cũng khó có thể tin rằng viên hạ sỹ cao lòng khòng, "ốm đói như sót lại từ năm 1945" (lời chính H3 miêu tả về mình lúc bấy giờ), chuyên nghiên cứu số đề, đánh bạc như con nghiện thực thụ, lại có thể là "con cá bự" của tình báo Việt Cộng.
Kẻ chơi đề, gây lộn trong cuộc chiến im chìm
Ẩn trong vóc dáng gầy ốm với đôi tai to như thể mọi sự ồn ã bên ngoài đều lọt thấu, Nguyễn Văn Minh (Ba Minh) lẳng lặng đến công sở hằng ngày, ít nói và vô cùng thận trọng, bởi với ông, “lúc nào mình chẳng như cá nằm trên thớt”.
Cờ giải phóng tung bay tại Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, ngày 30/4/1975. H.3 lặng lẽ rời BTTM lúc 3h chiều cùng ngày, sau khi hoàn thành nốt công việc cuối cùng: Bảo quản và bàn giao lại toàn bộ hồ sơ, giấy tờ đã được niêm phong cho quân giải phóng. Ảnh: chụp lại tư liệu tại Dinh Thống Nhất.
Hơn 10 năm làm thư ký đánh máy tại BTTM là hơn 10 năm Ba Minh sống trong hang hùm. Người bao bọc và giúp đỡ cho ông không ai khác chính là gia đình và những người đồng chí. Tuy nhiên, trước khi được dốc trọn sức mình cống hiến trong sự che chở vẹn toàn, Ba Minh đã phải trải qua những cuộc chiến im lìm đến khốc liệt.
10 đứa con nheo nhóc, 10 năm làm việc không màng gì thăng tiến, viên thượng sĩ nhứt hay đau yếu liên miên ấy, lạ thay, lại có cách làm việc rất chuyên nghiệp. “Chẳng xía vô chuyện của ai bao giờ”, Ba Minh trở thành một trong những viên thư ký được các đời Tổng tham mưu trưởng (trải từ thời tướng Nguyễn Hữu Có cho tới tướng Cao Văn Viên) đặc biệt tin cậy.
Ông biết cách sắp xếp tài liệu rất gọn gàng, có khi chỉ 2 phút sau khi tướng Viên yêu cầu là đã tìm xong. Ông còn là người được Cao Văn Viên tin tưởng, nhờ tìm mua những cuốn kinh Phật trong giai đoạn cuối của cuộc chiến ở Việt Nam. Ông là thượng sĩ duy nhất được vào phòng Tổng tham mưu trưởng mà không cần xin phép trước. Thậm chí, có những tài liệu mật mà chỉ 5 người được phép biết, trong đó, 4 người kia đều phải hàng chóp bu. Có mỗi ông thì lúc nào cũng lờ đờ là một anh thượng sĩ.
Nhưng làm lính tráng quèn của BTTM mà chỉn chu, nghiêm túc quá thì cũng kỳ. Như ai, Ba Minh cũng đôi lần quậy dữ. Nguyên tắc chỉ cực kỳ kỷ luật khi làm việc, còn ngoài ra, ông “hay mang cuốn nghiên cứu số đề trong người để nguỵ trang. Nguỵ thế thôi, chứ chơi đề là thật”. Ông cười sảng khoái khi ngẫm lại thời “chúa đề” của mình và lý giải.
“Tôi sống tự nhiên để có thể đóng góp những cái quý nhất cho cách mạng. Khi liên lạc bị đứt, tôi cũng sống làm việc bình thường thôi. Trong cơ quan, có người cũng chơi thân nhưng tôi không hỏi han gì để gây nghi vấn cả. Nghĩa là tôi vẫn giữ được bình phong tối đa của một người rất bình thường. Thậm chí tôi cũng gây lộn, đánh bạc... như tất cả người khác trong BTTM. Có dạo đánh bạc cũng dữ. Binh xập xám, tổ tôm... oánh tất. Một ông thiếu tá tuỳ viên, cận vệ của ông tướng phó trưởng liên quân, tương đương tổng tham mưu phó, cũng hay qua phòng tôi chơi bài”.
Sau này, chính bí quyết nguỵ trang số đề ấy đã giúp cho H3 giữ được an toàn tuyệt đối trong giai đoạn phải truyền tin tức dồn dập ra ngoài hồi cuối năm 1974. Thậm chí, cái vỏ "đề đóm" còn khiến ông “đến khi giải phóng lại thu được tiền lời bằng 8 tháng tiền lương”.
Đi tìm người trừng mắt
Sinh năm 1933, Ba Minh nói rằng, cuộc đời ông sống vội lên trong nghèo khó. Cha là người Hưng Yên, má là người Nhị Khê, ông rất tự hào: “Tôi cùng quê với Nguyễn Trãi đó!”. Thuở dắt dìu nhau vào Nam, ba má ông sinh được 6 người con: 5 trai 1 gái. Anh cả sinh năm 1929, ông là con thứ hai, đặt tên là Nguyễn Văn Minh, thường gọi Ba Minh theo cách của người Nam bộ.
Ba Minh kể rằng, ông lớn lên ít học (chỉ hết tiểu học, sau này mới học thêm), vì gia đình quá khổ. Đã có thời tính vô căn cứ, nhưng gia cảnh ngặt nghèo, 18 tuổi đã phải thay cha nuôi em, sức khoẻ lại yếu, nên ông nghĩ có vô rừng cũng bị đuổi về trông em mà thôi.
Tuy nhiên, dòng máu cách mạng thì đã ngấm vào máu ông từ nhỏ. “Ba của tôi cũng không được học hành gì, viết chữ sai chính tả tùm lum, nhưng rất khoái nói chuyện chính trị. Ông là người Bắc, cứ uống 1-2 chén rượu vô thì ngồi nói chuyện cách mạng suốt ngày. Ông nói về Phan Chu Trinh, về Phan Bội Châu, về lòng yêu nước, tôi nghe riết rồi nhập tâm".
Bên cạnh đó, Ba Minh còn có một người chú ruột - người khiến Ba Minh nhớ ơn rất nhiều, bởi đó không chỉ là người thầy dạy nghề đầu tiên mà còn là người hướng dẫn cách mạng cho ông nữa.
Cha, chú, anh trai, rồi sau này là em trai, em gái của Ba Minh đều đồng lòng đi theo cách mạng, dẫu cho bức tường mà họ tựa vào có thể rất khác nhau.
18 tuổi, Ba Minh kiếm sống, nuôi em bằng nghề thợ giày và tham gia vào nghiệp đoàn thợ giày. 20 tuổi, chàng thanh niên ưa hoạt động phong trào này được đưa ra Đồng Tháp Mười, giữa chốn đồng không mông quạnh, để học chính trị, học về nghệ thuật chiến tranh nhân dân. Khi trở về khu phố, những chàng trai trẻ như Ba Minh cứ đều đặn sinh hoạt tổ mỗi tuần 1 lần, tổ chức đi căng biểu ngữ đấu tranh chống Diệm phá hoại Hiệp định Geneve, bày mưu giả đụng xe để cản đường, thu hút người xem và tuyên truyền cách mạng.
Thời kỳ 1954-1955, Ba Minh tham gia biểu tình công khai trên đường phố Sài Gòn. Hàng ngàn người đổ ra kín đường phố chính, mặc cho cảnh sát dùng xe jeep dàn hàng ngang càn tới, đánh lựu đạn hơi cay, cán cho đồng bào bể xương cũng mặc.
Năm 1955, Diệm bắt đầu tăng cường khủng bố. Ba Minh không bị bắt, nhưng tổ chức của Ba Minh và Trần Minh Đạm ở huyện uỷ Thủ Đức (lúc bấy giờ gọi là phân khu Thủ Đức - Dĩ An) bị vỡ. Cả 2 giao ước với nhau: Ai bắt được liên lạc với tổ chức thì kéo người khác đi theo. Thời điểm đó, Ba Minh thất nghiệp, 1 vợ 1 con nheo nhóc. Ông bèn đăng ký đi học thư ký đánh máy, rồi bán nhà, đút tiền xin làm ở Lữ đoàn Phòng vệ Phủ Tổng thống.
Thời điểm đó, Ba Minh đang hoạt động dưới sự chỉ đạo của vợ chồng ông Chín Đức (Trần Quốc Hựu – nguyên Bí thư huyện uỷ Thủ Đức – Dĩ An), đầu mối liên lạc là cô em gái tên Nguyệt.
Đến năm 1960, thành tích đáng kể đầu tiên của Ba Minh là vẽ lại sơ đồ phòng thủ thành Cộng Hoà để chuyển cho ông Chín Đức. Với vai trò thư ký đánh máy về quân số (vào sổ lính gác, tên, số quân, lý lịch cá nhân, gia đình...), hàng ngày Ba Minh có cơ hội tiếp xúc, bắt quen rồi xin xỏ, bí quá thì... ăn cắp vũ khí (đạn, lựu đạn), đem về bảo em chuyển ra cho tổ chức.
Năm 1962, lính dù tiến hành đảo chính Diệm - Nhu, cuộc đảo chính được xem là "lời cảnh cáo cuối cùng" đối với chế độ Diệm. Sang năm 1963, ngay trong ngày anh em Diệm - Nhu bị ám sát tại cuộc đảo chính 1/11/1963, sau 3 giờ nằm dưới tầm pháo kích tấn công thành Cộng Hoà, khi thoát ra ngoài được, Ba Minh đã kết luận rằng: "Hoá ra, mình không biết sợ là gì".
Sau khi đã vào được Văn phòng BTTM, Ba Minh thường theo TTMT Nguyễn Hữu Có về Cần Thơ (ở Quân đoàn 2, vùng 4 chiến thuật) công tác. Nhưng khoảng thời gian yên ả đó không lâu. Sài Gòn lại tiếp tục biến loạn. Tướng Có lên chức, thuyên chuyển đến Pleiku. Thi thoảng nhớ tổ chức quá, khi tìm về mạn Cái Răng (Cần Thơ), Ba Minh trong bộ đồ hạ sỹ nhất cứ lang thang vào xóm chỉ để tìm xem "có ai trừng mắt nhìn mình không" mà bắt liên lạc. Vậy mà vẫn không thành.
Ngồi trên “vàng” mà ấm ức
Suốt một thời gian dài, Ba Minh cứ đi tìm tổ chức, tìm đồng đội như thế.
Thượng sỹ nhất Nguyễn Văn Minh đã mải miết đi tìm đôi mắt, cái đầu của tổ chức tình báo đủ tầm đánh giá được giá trị chiến lược của những tài liệu mà anh đang giữ, suốt mấy chục năm trời, đến cuối năm 1973 mới toại nguyện: Gặp được Hai Kim. Ảnh: Hà Trường.
Đến tận cuối năm 1965, sau cuộc chỉnh lý của nhóm tướng lĩnh trẻ lật Nguyễn Khánh, tướng Nguyễn Hữu Có quay về Sài Gòn, trở thành "nhân vật số 3" trong Chính phủ VNCH, chỉ sau Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng, kiêm Tổng tham mưu trưởng Quân đội Sài Gòn. Nguyễn Văn Minh cũng có mặt trong nhóm hầu cận của tướng Có, lọt vào Bộ Tổng tham mưu, làm thư ký văn phòng lưu trữ hồ sơ.
Ngày 14/10/1965, khi tướng Cao Văn Viên được cử chức Tổng Tham mưu trưởng thay tướng Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Minh vẫn được giữ lại trong tổ thư ký, chính thức "nằm trên đống vàng" tài liệu - cách mà ông thường nói thế - suốt 10 năm liền sau đó.
Tuy công việc đã êm êm, song Ba Minh vẫn trăn trở và ấm ức mãi vì không tìm được người để móc nối và sử dụng nguồn tin. Dẫu tự nhận là “không học hành nhiều”, nhưng Ba Minh hiểu: không lấy được tin này ra là thiệt thòi cho cách mạng.
Lúc bấy giờ, quan niệm của Ba Minh về tình báo quân sự cũng chỉ đơn giản như chính cách ông được học về tình báo: ngày xưa, coi phim thấy tình báo Anh lấy được bản vẽ tí ti mà sau này nhờ nó, họ đã đánh sập tuần dương hạm lớn nhất của Đức. Rồi cả chuyện ba ông hay kể về người lính Cộng sản được bố trí đi theo Quốc dân đảng. Anh lính này được ông Mao Trạch Đông giao mỗi một việc, khi nào Tưởng Giới Thạch trở mặt thì cấp báo. Vậy là hoàn thành nhiệm vụ.
"Tôi sức yếu, chỉ nghĩ rằng mình đóng góp được gì cho cách mạng thì đóng góp. Những người trong phim hay trong truyện tôi đã xem, đã nghe, cả đời họ chỉ làm đúng một việc, nhưng miễn là thành công thì cũng đã là đóng góp rồi" - ông nghĩ vậy, và lý giải đơn giản vậy.
Và rồi cuối cùng, cả đời ông đã diễn ra đúng như cách ông đã chọn.
Gian nan tìm đồng đội
Năm 1967, việc liên lạc với huyện uỷ Thủ Đức được nối lại thông qua người em gái. Nhưng mối quan tâm của người phụ trách huyện uỷ chỉ dừng lại quanh những tin lặt vặt liên quan đến cấp huyện - điều mà "bói suốt ngày" mới thi thoảng kiếm được ở văn phòng cỡ BTTM. Nhưng chưa kịp chuyển tin gì thì Ba Minh phải vào viện vì bệnh - việc như cơm bữa hàng ngày.
Ba Minh nói rằng: Tình yêu nước, mong muốn cống hiến cho cách mạng lớn lên, được nuôi dưỡng trong ông bắt đầu từ những câu chuyện kể về Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... Vì vậy mà suốt mấy chục năm trời nằm trong lòng địch, ông mong mỏi có 1 cơ hội để có thể cống hiến chút công "lấy sức ít mà đánh được địch nhiều". Ảnh: Hà Trường.
"Trong nhà tôi giờ vẫn còn giữ cái giấy tôi nằm viện 4 tháng. Còn ở ngoài Hà Nội vẫn còn cái giấy tôi nằm viện tới 5 tháng trời. Bệnh nặng, năm nào cũng vào viện mấy đợt, đóng góp của tôi với cách mạng cũng kém đi vì vậy", Ba Minh cười khi nhắc tới bệnh tật.
Nhưng đấy đúng là chuyện "tái ông thất mã". Vì sức khoẻ ốm mà ông vì giữ kín được mình, để đến phút cuối cùng mới tung tổng lực ra cho cách mạng nhiều hơn. "Nếu làm từ hồi đó, chắc tôi bị bể sớm rồi. Mà bể thì làm gì có cơ hội phục vụ được như sau này", ông lại cười sảng khoái.
Đến 1967, Ba Minh vào hẳn trong trại gia binh BTTM, có nhiều thời gian hơn với việc tiếp xúc tài liệu. Một năm sau, cán bộ phụ trách và huyện uỷ Thủ Đức vỡ, Ba Minh tạm thời mất liên lạc.
Không chịu ngồi yên, cùng lúc, thông qua người em gái cũng hoạt động mật, Ba Minh cứ đều đặn gửi thông tin ra ngoài cho nhiều lưới khác nhau. Chiến công đầu tiên mà Ba Minh thấy rõ ràng nhất là lần ông báo tin về một toán biệt kích mới được huấn luyện tại nước ngoài sắp được tung ra phá hoại hậu phương miền Bắc.
Về sau, bà chị dâu Sáu Chi (người luôn chủ động móc nối liên lạc cho chú em Ba Minh) thông báo lại: "Ngoài đó người ta biểu dương chị em mình quá trời luôn". Vì tin báo kịp thời này đã giúp miền Bắc đón lõng, bắt gọn toàn bộ nhóm biệt kích kia.
Tuy nhiên, đã làm tình báo thì lúc nào cũng phải chuẩn bị sẵn tinh thần chịu nguy nan. Một lần, trên đường chuyển tài liệu ra cứ, người giao liên của Ba Minh bị địch phục bắn chết, tài liệu bay tung toé ra đường.
Nhưng may mắn thay, dù tài liệu mà địch thu được còn nguyên chữ viết của ông, song do thông tin mà cấp huyện yêu cầu chỉ là tin tức phòng vệ thông thường, lấy đâu cũng được nên không bị mật vụ truy xét kỹ về nguồn.
Bình luận về sự việc này, Đại tá T.T nói: “Đó là một mất mát về con người, nhưng cũng là một điều may cho Ba Minh. Nếu tin tức đó quan trọng, địch tập trung truy xét là "lòi" ra ngay. Thông tin, tài liệu chính là điệp viên. Nếu mất Ba Minh lúc đó, về sau, cách mạng sẽ mất đi một nguồn tin có tính chiến lược đặc biệt quan trọng”. Sự việc đó xảy ra vào năm 1972.
Vốn là người thận trọng và kỹ tính, sau sự cố ấy, Ba Minh ráo riết tìm người liên lạc cấp cao hơn, bởi ông biết mình đang nằm ở chỗ nào. “Hồi đảo chính Diệm, tôi nằm 3 giờ dưới đạn pháo, khi chui lên mới biết là mình đâu có sợ gì. Tôi chỉ sợ là tài liệu quan trọng không được dùng đúng chỗ thôi”.
Và cuối cùng, đến cuối năm 1973, cái tên Hai Kim xuất hiện trong cuộc đời Ba Minh, đưa Ba Minh vào đúng vị trí lịch sử mà ông theo đuổi từ những ngày còn "học" làm tình báo: Chỉ cần có cơ hội, chỉ cần cung cấp được một thông tin có giá trị đã là mãn nguyện rồi.
Nhưng Ba Minh không chỉ cung cấp một thông tin. Ông đã báo về một "núi" thông tin, toàn loại tuyệt mật, chỉ trong vòng chưa đầy năm rưỡi.
Bắt đầu từ giờ phút gặp Hai Kim, các bí số H3, H4, T2... cũng lần lượt ra đời. Nhà tình báo không chịu ngồi yên ấy đã tìm được đôi mắt đủ sức đánh giá những tài liệu ông đang giữ sau gần 10 năm trời lặn lội.
Kỳ 4: Cuộc thử lửa cho tấm lưới vàng
Cập nhật lúc 10:15, Thứ Năm, 03/05/2007 (GMT+7)
,
(VietNamNet) - Tháng 4/2007. Người mang bí số H3 bí ẩn nay đôi mắt đã mờ đục. Một mắt loà, một mắt chỉ còn 30% thị lực. Ông nói, đó là kết quả những ngày đêm ông ngồi viết tài liệu đêm ngày để chuyển kịp về cho cách mạng.
"Tôi từng làm việc với rất nhiều lưới khác nhau. Nhưng quãng thời gian tôi làm việc cật lực nhất là với chị Hai Kim, từ đầu năm 1974 cho đến ngày giải phóng", đôi mắt Ba Minh dần tìm về thời kỳ hoàng kim với những người đồng đội...
Niềm tin cách mạng giữa giai đoạn thăng trầm
...Năm 1969, Trưởng trạm B.52, đồng chí Ba Phấn (tên thật là Nguyễn Văn Phấn) dẫn đoàn cán bộ xuống khu 9 (Đồng bằng sông Cửu Long), vượt qua 1 chặng đường dài gian khổ để đứng chân ở vùng giải phóng, xây dựng cụm tình báo ở vùng đất giàu truyền thống cách mạng này.
Thử thách rơi vào trạm B.52 đúng vào thời kỳ khốc liệt nhất: Mỹ - VNCH đang tiến hành bình định cấp tốc vùng căn cứ, địch tăng cường càn quét kết hợp đánh B.52. Vùng giải phóng thu hẹp, không còn dân. Việc đi lại giữa căn cứ với vùng tạm chiếm rất khó khăn vì phải qua vùng trắng.
Đại tá Nguyễn Văn Minh (Ba Minh), điệp viên mang bí số H3, người mà Frank Snepp, cựu chuyên gia phân tích chiến lược của CIA, từ năm 1977 đã tò mò đặt dấu hỏi về "con người vô danh" mà ông gọi là “điệp viên trong hàng ngũ thân cận của Tổng thống Thiệu”, trong cuốn Decent Interval (Cuộc tháo chạy tán loạn). Ảnh: Hà Trường.
Sau 2 năm đứng chân, trạm trưởng Ba Phấn về báo cáo lại với Trưởng phòng J22: "Tình hình chính trị quân sự khu 9 đang hé mở có triển vọng, nhưng khả năng tình báo còn mờ mịt. Tuy ác liệt nhưng tôi không sợ, không đáng kể đâu. Bất quá chết thì thôi. Nhưng đáng buồn là mình cứ chạy càn, đến gặp quân khu 9 làm phiền cấp trên đang trăm công ngàn việc mà không phục vụ gì được". Thiếu tướng Sáu Trí nhớ lại những day dứt của người trạm trưởng dưới quyền, nhưng cũng là đồng đội một thời vào sinh ra tử.
Sự day dứt của người lính tình báo khi đã bằng mọi cách vẫn không thể hoàn thành nhiệm vụ chính là điều mà người trong nghề dễ gặp và dễ chia sẻ với nhau nhất. Tình báo là bám vào dân, nguồn tin là ở dân, tài liệu cũng từ dân, điệp viên cũng từ dân mà ra. Nay, cơ sở quần chúng thì ở vùng tạm chiếm, còn trạm thì đóng ở chiến khu. Trong khi đó, đoàn của đồng chí Ba Phấn lúc bấy giờ chưa có được cơ sở hợp pháp. Vậy thì chỉ còn là 1 đơn vị vũ trang đúng nghĩa!!!
Trong khó khăn, mới thấy niềm tin cách mạng và nghĩa tình đồng đội. Vào thời gian đầu, cùng với việc xây dựng mạng lưới, trạm B.52 tạm thời dùng thông tin từ phòng tình báo J22 chuyển xuống để báo cáo với Tư lệnh khu 9, người mà về sau cái tên đã trở thành quen thuộc với nhân dân Việt Nam: Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bí danh Sáu Nam. Đồng thời, J22 tăng cường cho B.52 một cán bộ nữ hợp pháp, có tên Hai Kim.
Khi trạm B.52 đang thiếu cơ sở nằm sâu trong lòng địch, thì cơ hội đến. Bà Sáu Chi, một người trong mạng lưới lên Sài Gòn bắt liên lạc với 1 người cháu là đại uý không quân nhưng người này đã thiệt mạng. Bà Sáu Chi buồn lắm, nhất định không chịu về tay không. Nhân lúc qua thăm gia đình em chồng, biết được vị trí và nguyện vọng của Ba Minh, bà Sáu Chi giới thiệu ngay chú em mình với Cụm trưởng Ba Phấn.
Với bản năng của một người chỉ huy tình báo lâu năm đã kinh qua chiến trường, Cụm trưởng Ba Phấn (lúc đó đã là Cụm A33, đóng tại Cần Thơ) biết ngay rằng đây đã là 1 nguồn tài liệu quan trọng. Hai Kim được cắt cử lên đường vào Sài Gòn tiếp cận với Ba Minh. Lúc đó khoảng mùa mưa, chừng tháng 8-9/1973.
Thử thách đầu tiên
"Bả đến nhà đứa em gái tôi hôm 28 Tết âm lịch. Hôm đó đang có giỗ bên nhà chồng nó", Ba Minh và cô Nguyệt (em gái) nhớ lại. Khi tới, cô Hai Kim cầm theo 1 tấm ảnh của cháu Hoàng (con đầu lòng của Ba Minh) để làm tin.
"Khi chị Sáu Chi trở về, chị có dẫn thằng con lớn của Ba Minh là thằng Hoàng ra chiến khu, gửi cho A33 để được bảo đảm an toàn. Vì khi đó nó đang học lớp 12, có thể bị bắt lính. Lúc đến, trong vai là người đi mua vải, tôi đưa thẻ của thằng Hoàng ra. Cô Nguyệt tin ngay. Song cô chưa bắt chuyện ngay mà lấy nước, lấy báo cho tôi coi, với lý do nhà đông khách. Tôi biết lúc đó gia đình cổ vẫn quan sát tôi, tôi ngồi chờ cho đến phút cuối rồi hẹn mấy ngày sau sẽ gặp lại. Ngay hôm sau, cô Nguyệt báo lại với anh trai. Lúc đầu ảnh cho rằng, hoặc là thằng Hoàng đã bị bắt, hoặc hoặc vì lý do nào đó, nó đánh rơi thẻ mà thôi", cô Hai Kim nhớ lại.
Quân giải phóng chiếm Bộ Tổng tham mưu Quân đội Sài Gòn. Nơi đây, H3 đã "ẩn" mình suốt 10 năm trời chờ đợi để góp sức mình cho cách mạng. Ảnh: Chụp lại tư liệu tại Dinh Thống Nhất.
Sự thận trọng đó vốn là bản tính của Ba Minh, cộng thêm được rèn giũa kỹ càng vì đang sống giữa trung tâm Bộ Chỉ huy Sài Gòn. Vì thế, mặc dù nghe Hai Kim kể rất rành rọt về chị dâu Sáu Chi, nhưng Ba Minh vẫn chỉ mới tạm nhận lời và tìm cách... thử thách “thủ trưởng”.
“Lần gặp đầu tiên, Ba Minh cứ ngồi nói, nói... liên tục, từ kiến thức quân sự, kiến thức về tổ chức bộ máy quân đội Sài Gòn, cho tới những con số chi tiết trong các bản báo cáo mà Ba Minh còn nhớ vanh vách. Sau đó, anh hỏi lại một câu thế này: “Không biết nãy giờ tôi nói, chị có lãnh hội được không?” Tôi biết ảnh nói câu đó là để thử thôi. Tôi liền bảo là để tôi báo cáo lại những gì anh nói nãy giờ. Thế rồi tôi tóm lại những ý chính, đồng thời nêu luôn tất cả các con số mà anh nêu, dù tôi đâu có ghi chép" - bà Hai Kim cười vui, kể lại.
Đến khi đó, Ba Minh mới yên tâm vào người cộng sản có đôi mắt mà mình đang cần. Khi đã đặt trọn vẹn niềm tin rồi thì mức độ "nhồi" tài liệu của Ba Minh tới giao thông viên đặc biệt Hai Kim thật... kinh hoàng. Từ lịch hẹn gặp 2 tháng/lần, Ba Minh chủ động rút xuống còn 1 tháng..., rồi cuối cùng là 5 ngày/lần gặp, mỗi lần là hàng chục trang tài liệu gốc. Đó là khoảng thời gian làm việc khủng khiếp nhất trong cuộc đời làm tình báo của Ba Minh.
Bắt đầu nhập lưới
Đại tá Ba Minh dù đến nay đã qua tuổi 70, trí nhớ kém nhiều, nhưng vẫn còn nhớ ngày đầu tiên đó: "Lúc đầu tôi cũng đâu có chép nguyên gốc nguyên bản cho bà Hai Kim. Tôi chỉ nói thôi, tôi cũng có viết nhưng mang tính tóm lược chứ không viết rõ ràng hết.
Văn hoá tôi kém nhưng lúc đầu tôi đọc báo thiếu nhi có sách hồng của ông Tố Hữu, mặt sau có mục ai? ở đâu? tại sao? thế nào? lúc nào? (5 yếu tố W khởi nguồn của truyền đạt tin tức - NV). Vì thế, một nguồn tin tôi đưa cũng có tổ chức, đơn vị nào, làm gì, ngày giờ, thực hiện ở đâu, tại sao lại cần thiết như vậy. Phải mất một vài tháng tôi mới bắt đầu chép thử chuyển cho bà Hai Kim".
Rồi từ tháng 2/1974, bí số H3 ra đời. Đó là Thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh, thư ký đánh máy tại văn phòng Bộ Tổng tham mưu - Bộ Quốc phòng VNCH. Hai Kim mang bí số T2. Người em gái Ba Minh là Nguyễn Thị Nguyệt mang bí số H4. Một người em trai nữa của Ba Minh tên Nguyễn Văn Chí (sinh năm 1941) cũng tham gia nhưng không đặt bí số. Lưới điệp báo xoay quanh H3, theo tài liệu lưu trữ, được đặt là A3.
Người chỉ huy T2 nhớ lại, để chuyển tin cho một mình H3, có tới gần chục người sẵn sàng làm nhiệm vụ. Trước khi bắt đầu, họ có một lời tự thề với mình rằng: sẽ sẵn sàng im lặng tuyệt đối nếu lỡ bị bắt, bị tra tấn hay thậm chí bị giết, chỉ bởi vì một điều đơn giản, họ có nhiệm vụ đảm bảo an toàn tuyệt đối cho H3.
Và cả một lưới gồm rất nhiều người đang nằm ở chiến tuyến khác nhau, thậm chí chưa hề biết đến nhau, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyệt mật, đến giờ phút quân giải phóng cắm cờ lên Dinh Độc Lập và Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn.
VƯƠNG HỒNG ANH/ Việt Báo
Quân đội VNCH anh hùng. |
Lời tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm "Ngày
30-4-1975", VB trân trọng giới thiệu bài tổng
hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra trong
những ngày cuối tháng 4/1975.
Bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau
đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do
Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi
ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng
Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; một
số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các
chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt
Báo.
* Đại tướng Cao Văn Viên, những giờ cuối cùng tại
Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực VNCH
Theo lời kể của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi
lại trong Việt Nam Nhân Chứng, trước lễ bàn giao
chức vụ Tổng thống VNCH diễn ra vào buổi chiều
28/4/1975, thì vào 8 giờ sáng ngày 28 tháng 4,
Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Trần
Văn Đôn đã đến văn phòng Tổng tham mưu trưởng
như thường lệ gặp Đại tướng Cao Văn Viên để theo
dõi tình hình quân sự. (Theo tài liệu ghi trong
Quân sử VNCH, vào năm 1955, ông Trần Văn Đôn là
Thiếu tướng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu,
ông Cao Văn Viên là Thiếu tá, giữ chức vụ Trưởng
phòng 4 Bộ Tổng Tham mưu).
Trong cuộc gặp nói trên, Đại tướng Cao Văn Viên
nhắc với Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc
phòng Trần Văn Đôn rằng Tổng thống Trần Văn
Hương đã ký sắc lệnh cho ông nghỉ, do đó, ông
yêu cầu cựu Trung tướng Đôn với chức danh là
Tổng trưởng Quốc phòng, cử người thay thế. Ngay
lúc đó, có điện thoại của ông Dương Văn Minh gọi
cho Phó thủ tướng Trần Văn Đôn, dặn ông cố gắng
giữ Đại tướng Viên ở lại chức vụ Tổng Tham mưu
trưởng, đừng cho Đại tướng Viên đi.
Trước sự việc như thế, Tổng trưởng Quốc phòng
Trần Văn Đôn không biết xử sự làm sao vì Tướng
Viên đã được Tổng thống Trần Văn Hương cho nghỉ
( sắc lệnh này được Tổng thống Trần Văn Hương
công bố vào chiều ngày 28/4/1975). Cựu Trung
tướng Trần Văn Đôn hỏi Đại tướng Cao Văn Viên:
-Nếu anh đi, thì theo anh ai sẽ thay thế được?
Đại tướng Cao Văn Viên không trả lời thẳng mà
hỏi lại cựu Trung tướng Trần Văn Đôn:
-Anh sẽ làm gì ?
Cựu Trung tướng Trần Văn Đôn trả lời:
-Tôi cũng chưa quyết định. Mấy ngày trước ông
Minh và ông Mẫu muốn tôi tiếp tục giữ ghế Tổng
trưởng Quốc phòng nhưng tôi chưa trả lời, nay
ông Minh cho tôi biết Hà Nội không muốn có người
nào trong nội các cũ ở lại trong nội các mới."
Về lại văn phòng, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn
nhận được điện thoại của ông Dương Văn Minh hủy
bỏ sắc lệnh mà Tổng thống Trần Văn Hương đã ký
cho phép Đại tướng Cao Văn Viên nghỉ dài hạn
không lương, nhưng sắc lệnh đó Tổng thống Trần
Văn Hương đã ký trước khi bàn giao chức vụ Tổng
thống.
* Chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH vào
những ngày cuối tháng 4
Về chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH,
sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào
tối 21 tháng 4/1975, và sau cuộc rút quân khỏi
Xuân Lộc, Đại tướng Cao Văn Viên không còn thiết
tha với chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực
VNCH, trong khi đó, tân Tổng Thống Trần Văn
Hương lại muốn bổ nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên
làm Tổng tư lệnh Quân đội với đầy đủ quyền hạn,
so với chức vụ Tổng Tham mưu trưởng mà Đại tướng
Viên đã nắm giữ từ tháng 10/1965.
Thế nhưng, như đã trình bày ở phần trên, Đại
tướng Cao Văn Viên đã trình xin Tổng Thống Trần
Văn Hương cho ông được giải nhiệm. Tổng thống
Trần Văn Hương không đồng ý và yêu cầu Đại tướng
Viên tiếp tục giữ chức vụ. Chỉ đến khi Tổng
Thống Trần Hương trao quyền cho ông Dương Văn
Minh thì Đại tướng Cao Văn Viên mới nhận được
quyết định giải nhiệm.
Kể lại chuyện này, Đại tướng Cao Văn Viên ghi
trong hồi ký như sau: "Trước khi Tổng Thống
Hương bước xuống, Tổng Thống đưa ra một sắc lệnh
giải nhiệm tôi khỏi chức vụ Tổng Tham mưu trưởng
Bộ Tổng Tham Mưu. Đến khi tân Tổng Thống (cựu
Đại tướng Dương Văn Minh) muốn chọn người thay
thế tôi, tôi đề nghị Tướng Đồng Văn Khuyên, lúc
ấy đang giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham
mưu kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận".
* Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, những giờ cuối cùng
Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có
thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã
ra đi. Đại tướng Cao Văn Viên rời Việt Nam từ
chiều 28/4/1975 cùng với Chuẩn tướng Thọ (trưởngphòng
3); Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng
Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng
Tiếp vận rời Bộ Tổng Tham mưu từ trưa ngày
29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, được
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức vụ
Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô vào cuối tháng 3/1975,
cũng đã ra đi. ( Giữa năm 1968, Tướng Nguyễn Văn
Minh đã giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô lần
thứ 1; đến năm 1971, ông được bổ nhiệm giữ chức
vụ Tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 thay thế Trung
tướng Đỗ Cao Trí tử nạn; từ tháng 11/1973 đến
tháng 3/1975, ông lần lượt giữ các chức vụ: Chỉ
huy trưởng Trường Bộ Binh, Tổng thanh tra Quân
đội).
Trước tình trạng nhiều vị tướng lãnh đã "từ
nhiệm", tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một
số tướng lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ
trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng
Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn tướng,
đã về hưu từ tháng4/1974, làm Phụ tá Tổng tham
mưu trưởng; cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được
cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng Lê
Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2,làm Tư
lệnh phó phụ giúp Tướng Lâm Văn Phát; Chuẩn
tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công
binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội các Nguyễn Bá
Cẩn, giữ chức Tổng cụctrưởng Tiếp vận. Sau khi
nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975,
Trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu tập một cuộc họp
với các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở
lại Sài Gòn tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và
yêu cầu "mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm
việc với tất cả trách nhiệm".
Về tình hình chiến sự, từ sáng sớm ngày 30 tháng
4, tại các mặt trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa,
các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ
đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục
chiến, Biệt động quân... đều đặt trong tình
trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân.
Tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm
Văn Phát từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan
sát tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi
máy liên lạc với Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, sĩ
quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó.
Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi tuần
khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang
chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư Bảy
Hiền lên đến Hóc Môn.
Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi
Cộng quân ra khỏi Bộ Tổng Tham mưu, thì vào 10
giờ 15 phút (theo ghi nhận của cựu đại tá Phạm
Bá Hoa, nguyên Tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp Vận,
có mặt tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô sáng
30/4/1975 và nghe đài Sài Gòn vào giờ phút đó),
Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực
Việt Nam Cộng Hòa ngưng chiến. Trước đó vài phút,
chiến đoàn Biệt Cách Nhảy Dù đang tung các đợt
phản công để đánh bật địch quanh vòng đai Bộ
Tổng Tham Mưu.
Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu
Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Nhảy Dù đã lấy
xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em
binh sĩ gác cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh
Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng, đã ra đi lúc 6
giờ sáng, tất cả tướng lãnh và các đại tá đã họp
với Thiếu tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành
dinh Bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng
không còn ai.
Trước tình hình đó, Thiếu tá Tài đã bốc điện
thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ,
gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông
Hạnh hỏi Thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn
trưởng đã trả lời:
- "Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống".
Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy:
- "Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện gì đó?"
Thiếu tá Tài trình bày:
-
"Tôi
đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở
Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng bắn, nhưng
Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã liên lạc với bộ
Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói
chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao
của Quân đội để xin quyết định.
Tướng Minh trả lời:
- "Các em chuẩn bị bàn giao đi!",
Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại:
- "Bàn giao là như thế nào thưa đại tướng, có phải là đầu hàng không?"
Tướng Minh đáp:
-
"Đúng vậy, ngay bây giờ
xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập".
Nghe Tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài
nói ngay:
- "Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống".
Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp:
- "Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu."
Tướng Minh trả lời:
-
"Tùy các anh em".
Theo lời Thiếu tài Tài, sau này, khi bị CQ giam
trong trại tù, ông đã gặp Trung tá Võ Ngọc Lan,
Liên đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng thống
phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài:
- Lúc đó, moa đứng cạnh Tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống.
Thiếu tá Tài giải thích:
-
Tổng
thống là vị lãnh đạo tối cao của Quân lực, phải
cứu ông ra để có người chỉ huy quân đội.
VƯƠNG HỒNG ANH
No comments:
Post a Comment