Thursday, March 13, 2014
Chuyện về cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào nhằm cắt đứt đường mòn HCM đã được nhiều người viết ra. Ðầu tiên là nhà văn Phạm Huấn với quyển "Trận Hạ Lào năm 1971", rồi nhà văn nhảy Dù Lê Ðình Châu, đại uý đại đội trưởng đại đội công vụ nằm vòng đai bảo vệ cho Lữ đoàn 3 nhảy Dù trên đồi 31 cũng ra mắt quyển "Ðôi mắt người Tù Binh", và anh Nguyễn Văn Long, thiếu uý sĩ quan phụ tá ban 2 Lữ Ðoàn 3 nhảy Dù vẫn thường xuyên viết về Hạ Lào cho Ðặc San Nhảy Dù ỡ Úc Châu. Ở đây, tôi chỉ ghi lại câu chuyện như là một mẩu hồi ức dưới mắt nhìn của một người lính Không Quân.
Lữ Đoàn 1 Đặc Nhiệm Dù tại Khe Sanh đang chờ không vận vào Đồi-31 Hạ Lào
Tôi là một hoa tiêu phục vụ trong phi đoàn 219, thuộc Không Ðoàn 51, Sư Ðoàn I KQ trú đóng tại Ðà Nẵng. Phi đoàn 219 là hậu thân của biệt đoàn 83 với nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến tranh thầm lặng trong bóng tối nhằm gây rối, phá hoại hậu phương của địch. Vì thế tất cả phi cơ của phi đoàn 219 chỉ sơn toàn bệt màu đen và xanh lá cây xẫm bên trên phần bụng trắng và không mang phù hiệu hay cờ gì cả ngoài số serial number mà thôi. Là một phi đoàn chỉ thi hành những phi vụ đặc biệt ngoài lãnh thổ và ngoài những cuộc hành quân bình thường, nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, nằm trong kế hoạch được mệnh danh là Việt hoá chiến tranh, một cuộc hành quân quan trọng lần đầu tiên hoàn toàn do QLVNCH đảm nhiệm với sự yểm trợ tối thiểu của không lực Hoa Kỳ trong những ngày đầu với những loại trực thăng khổng lồ chuyên chở những xe cơ giới hạng nặng như xe ủi đất, lô cốt tiền chế, đại pháo 105 và 155 ly để QLVNCH dọn bãi thiết lập những căn cứ hoả lực đầu cầu trên đất Lào. Vì thế nên Quân Ðoàn I đã phải trưng dụng tất cả những đơn vị KQ trực thuộc Sư Ðoàn I KQ trong đó có phi đoàn 219. Như vậy phi đoàn chúng tôi, ngoài những phi vụ đặc biệt thường lệ, lại phải đảm nhiệm thêm việc yểm trợ cho Sư Ðoàn Dù, một trong 3 lực lượng nòng cốt trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Mỗi ngày phi đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm 2 hoặc 3 chiếc H34 nằm trực chiến tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh Bộ chỉ huy tiền phương Sư Ðoàn Dù. Từ đây chúng tôi xuất phát những phi vụ tiếp tế lương thực, đạn dược cho các căn cứ hoả lực 29, 30 , 31 và các đơn vị hành quân lục soát bên ngoài căn cứ. Những phi vụ này thường là rất "hot", nhưng "hot" nhất vẫn là những phi vụ tải thương cho binh sĩ nhảy Dù khi có đụng độ với quân cộng sản Bắc Việt. Và chuyện này xảy ra như cơm bữa hàng ngày nên chúng tôi coi như pha. Chúng tôi cứ luân phiên nhau mỗi phi đội trực chiến cho Sư Ðoàn Dù 4 ngày rồi trở về Ðà Nẵng tiếp tục những phi vụ thường nhật.
Hôm nay đến phiên trực của chúng tôi. Phi đội gồm có 2 phi cơ do anh Chung tử Bửu lead, tôi copilot và Nguyễn văn Em là mêvô, chiếc thứ hai tôi chỉ nhớ hoa tiêu chánh là anh Yên. Chúng tôi vào phi đoàn nhận lệnh vào lúc 8 giờ sáng rồi chia tay nhau về nhà sửa soạn hành trang, hẹn gặp nhau lúc 10 giờ ngoài phi đạo 219.
Ðúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh, trực chỉ Ðông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa thì chúng tôi ra đến Khe Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa vì nóng lòng muốn cứu đồng đội nên chúng tôi quyết định phải vào ngay đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn được. Trong khi anh Bửu vào trình diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương SÐ Dù để đặt kế hoạch cho chuyến bay thì tôi và mêvô Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn còn đầy bình trước, dư sức bay không cần phải refuel.
Một lát sau từ phòng briefing ra, anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở theo một tiểu đội tác chến điện tử Dù cùng với 18 chiếc máy "sensor" vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công địch, chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn anh Nguyễn thanh Giang về. 15 phút trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc theo quốc lộ 9, dập vào những địa điểm được ghi nhận có phòng không địch vì tình hình lúc này rất gây cấn, địch tập trung lên đến cấp tiểu đoàn phòng không gồm đủ loại từ 37 mm, 12ly7 và lần đầu tiên còn nghe có cả SA7 nữa. Về không trợ thì có 2 chiếc Gunship của phi đoàn 233 do trung uý Thục bay trước mở đường.
Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh Giang đã dùng chiến thuật "lá vàng rơi", từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Võ văn On bị xây xát nhẹở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, mêvô Trần hùng Sơn không quên vác theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây theo hướng Ðông-Tây đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 tôi còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất chính xác và hiệu qủa.
Gần đến LZ anh Bửu đổi hướng lấy cấp Ðông Nam-Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đã thấy chiếc Gunship của trung uý Thục bay vòng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy "Bửu coi chừng phòng không ở hướng Tây". Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích quấy phá của cộng quân bắc Việt. Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng một tràng đạn phòng không, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, mêvô Em la lên khẩn cấp trong máy "đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy". Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing "Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa" trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào bình xăng phụ đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ đại uý An ở Bù Ðốp hôm nào.
Vừa chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện rồi nhảy ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước. Tôi còn tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy "sensor" vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù "trên đây nè thiếu uý, tụi tôi bắn yểm trợ cho". Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như bò rống. Không quân mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu. Tôi nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.
Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nhìn xuống bãi tải thương nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã gần gụi với mình lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.
Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On, Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, thiếu tá Ðức trưởng ban 3, dại uý Trụ phụ tá ban 3, đại uý Nghĩa sĩ quan liên lạc KQ, trung uý Chính sĩ quan Không trợ Dù, thiếu uý Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có trung tá Châu tiểu đoàn trưởng và đại uý Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Ðại tá Thọ mừng anh em "mới đến" mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "ông" nhảy Dù vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như máy! Quả các anh ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng chì thật.
Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn quốc Trụ, một sĩ quan trẻ xuất thân khóa 20 trường Võ Bị Ðà Lạt. Anh cũng là anh ruột của trung uý Nguyễn hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với ý định đánh bật căn cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng.
Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được vì địch quân luôn di động dàn phòng không của chúng khiến KQVN và HK không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng, chỉ có 2 phi tuần F4 đến ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B52 rải thảm ì ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng điệp. Ngược lại, quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù.
Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, chúng tôi nhận được lệnh và khởi sự di chuyển ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến trưa đích thân phi đoàn với 3 chiếc H34 sẽ vào tải thương binh Dù đồng thời bốc 2 phi hành đoàn ra. Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận "tiền pháo" dồn dập lên đồi 31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rõ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ nòng súng phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân "Trời kêu ai nấy dạ!".
Ngòai kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được 2 chiếc T54. Nhưng để trả giá cho hành động dũng cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này có cả pháo đội trưởng Nguyễn văn Ðương, người đã là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Chúng tôi vui sướng reo mừng trong hầm bên này. Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 xe tăng khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình địch, và lại phá hủy thêm 2 xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 đang vần vũ trên cao như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ chiều thì địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, tôi và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.
Về phía KQ, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và bị dẫn giải ra bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù trên đường đi. Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả 2 chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần mêvô Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn Em gục chết ở bên đường.
Thế là 219 ghi thêm vào quân sử của mình một thiệt hại 2 phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của 2 phi hành đoàn đó là Bửu, On, Khánh và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không?
Viết để nhớ đến tất cả những chiến sĩ anh hùng đã thành danh hay vô danh, vẫn còn sống hay đã hy sinh cho quê hương đất nước. Sau 31 năm it ra tên tuổi các anh vẫn còn được nhắc đến một lần.
Kingbee Bùi Tá Khánh. Chiến tranh cục bộ là một chiến lược chiến tranh do
Tên gọi Chiến tranh cục bộ xuất phát từ quan điểm đây là một dạng "chiến tranh hạn chế" trong chiến lược toàn cầu "phản ứng linh hoạt".
Mục lục
[ẩn]Hoàn cảnh[sửa | sửa mã nguồn]
Theo kế hoạch Staley-Taylor, tổng thống Mỹ Kennedy hy vọng rằng: tới cuối năm 1962, lực lượng của chế độ VNCH được tăng cường vượt bậc chắc chắn sẽ giành lại thế chủ động và tiêu diệt được các lực lượng chính trị và vũ trang quân Giải phóng.
Thế nhưng, sau 18 tháng, dù đã bỏ ra không ít tiền bạc và công sức, Mỹ vẫn không đạt được mục tiêu cơ bản trong kế hoạch. Ngược lại, phong trào cách mạng miền Nam đã phát triển lên một bước mới. Chiến tranh đặc biệt của Mỹ không ngăn nổ làn sóng cách mạng miền nam. Cuộc Đồng khởi của nông dân miền nam phát triển thành chiến tranh toàn diện. Quân giải phóng đẩy mạnh chiến tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tiến công đẩy mạnh mẽ bằng cả hai mặt chính trị và quân sự với phạm vi ngày càng rộng lớn trên cả ba vùng chiến lược. Nhìn chung toàn miền Nam, đến cuối năm 1964, “quốc sách ấp chiến lược” của Mỹ đã thất bại về cơ bản[2].
Ở thành thị, các tầng lớp nhân dân đấu tranh quyết liệt với những hình thức rất phong phú, tiêu biểu là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế... Ở Sài Gòn, ngày 28 tháng 1 năm 1964, 20 vạn người bao vây dinh Độc lập đòi Nguyễn Khánh từ chức, đòi Mỹ rút khỏi miền nam Việt Nam. Ngày 21 tháng 9 năm 1964, hơn 10 vạn công nhân bãi công, biểu tình tuần hành phản đối chế độ quân sự Mỹ - Khánh... Ở Đà Nẵng, ngày 21 tháng 8 năm 1964, ba vạn người bãi chợ, bãi khóa, tuần hành phản đối Nguyễn Khánh, đến ngày 25 tháng 8 năm 1964, nhân dân thành phố đã chiếm toà thị chính, làm rối loạn thành phố liền chín ngày. Ở Huế, sinh viên, học sinh cũng rầm rộ xuống đường biểu tình.
Chính quyền Sài Gòn suy yếu. Một số tiểu đoàn, chiến đoàn, trung đoàn quân đội VNCH bị thiệt hại nặng. Sau thất bại ở trận Ấp Bắc, đến sau trận Bình Giã, Mỹ thấy là quân đội Sài Gòn sẽ thua. Tài liệu mật Bộ quốc phòng Mỹ ghi nhận “Nỗi thất vọng của Washington đối với tình hình quân sự ngày càng tăng lên khi quân đội Sài Gòn bị một cú thất bại trông thấy trong trận ác liệt Bình Giã ở đông-nam Sài Gòn”.[3]
Loạt bài Chiến tranh Việt Nam |
---|
Giai đoạn 1954–1959 |
Thuyết Domino |
Hoa Kỳ can thiệp |
Miền Bắc – Miền Nam |
Giai đoạn 1960–1965 |
Diễn biến Quốc tế – Miền Nam |
Kế hoạch Staley-Taylor |
Chiến tranh đặc biệt |
Đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm |
Giai đoạn 1965–1968 |
Miền Bắc Chiến dịch: |
Miền Nam Chiến tranh cục bộ |
Diễn biến Quốc tế |
Giai đoạn 1968–1972 |
Diễn biến Quốc tế |
Việt Nam hóa chiến tranh |
Hội nghị Paris |
Hiệp định Paris |
Chiến dịch: Lam Sơn 719 – Chiến cục năm 1972 – Hè 1972 –Linebacker –Linebacker II |
Giai đoạn 1973–1975 |
Chiến dịch: Xuân 1975 Phước Long |
Tây Nguyên -Huế - Đà Nẵng Phan Rang - Xuân Lộc |
Hồ Chí Minh |
Trường Sa và các đảo trên Biển Đông |
Sự kiện 30 tháng 4, 1975 |
Hậu quả chiến tranh |
Tổn thất nhân mạng |
Tội ác của Hoa Kỳ và đồng minh |
Chất độc da cam |
Thuyền nhân |
sửatiêu bản |
Hậu phương chế độ VNCH bị xáo động, lung lay, nội bộ mâu thuẫn với nhau gay gắt. Từ lúc Ngô Đình Diệm bị giết vào đầu tháng 11 năm 1963 đến tháng 6 năm 1965, đã diễn ra 14 lần đảo chính và phản đảo chính giữa các tướng lĩnh quân đội.
Tinh thần quân lính Sài Gòn rệu rã. Theo hãng tin Mỹ UPI, riêng trong 2 năm 1963-1964 đã có tới 16 vạn quân đào ngũ, riêng 6 tháng đầu năm 1965, thêm 87 ngàn nữa bỏ hàng ngũ.
Cuộc “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở miền nam Việt Nam được đẩy đến mức cao nhất bị thất bại. Bởi vậy, trong chính quyền Mỹ rộ lên những lời cảnh báo mới về sự thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. John A. Mc Cone - Giám đốc Cục Tình báo Trung ương Mỹ cho rằng: “Chúng ta (Mỹ) sẽ bị sa lầy trong cuộc chiến đấu ở rừng rậm, với một cố gắng quân sự mà ta (Mỹ) không thể giành thắng lợi được và cũng rất khó lòng rút ra được”[4]. Các quan chức trong chính quyền Mỹ đều thống nhất đánh giá tình hình Nam Việt Nam đang xấu đi, Chính phủ Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn, phần lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của Việt Nam Cộng hoà ngày càng bị thu hẹp. Mỹ cho rằng nếu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tiêu diệt chế độ VNCH, thì “không những chỉ phá hoại khối SEATO mà còn sẽ phá hoại lòng tin vào những cam kết của Mỹ ở những nơi khác”[5]
Bước vào năm 1965, nguy cơ thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đặt Mỹ trước một tình thế khó khăn cả ở Việt Nam và trong nước Mỹ. Giới cầm quyền Mỹ đề ra và thực hiện một số quyết định chiến lược mới. Đối với nhà cầm quyền Mỹ, quyết định chuyển chiến lược như trên không phải là đơn giản. Trong tập hồi ký của mình sau này, Tổng thống Johnson coi đó là một quyết định “ quyết liệt” nhưng “day dứt nhất và đau đớn nhất” của một đời tổng thống.
Tổng thống Johnson chỉ thị cho nhóm nghiên cứu liên Bộ Quốc phòng và Ngoại giao do Wiliam Bundy, Thứ trưởng Ngoại giao điều khiển thảo luận, vạch phương pháp lựa chọn cho chính sách của Mỹ ở Việt Nam. Nhóm này nêu ba phương thức lựa chọn:
- Phương thức lựa chọn A: tiến hành oanh tạc trả đũa Bắc Việt Nam, tăng cường các cuộc tiến công ở ven biển theo kế hoạch 34A, tiếp tục cho khu trục hạm tuần tra ở Vịnh Bắc Bộ, đẩy mạnh oanh tạc các mục tiêu thâm nhập ở Lào bằng máy bay T-28 và tìm cách thi hành các cải cách ở Nam Việt Nam.
- Phương thức lựa chọn B: ném bom Bắc Việt Nam với nhịp độ nhanh chóng và dữ dội, kể cả việc oanh tạc sân bay Phúc Yên gần Hà Nội và các cầu quan trọng dọc theo đường ô tô và đường sắt nối liền với Trung Quốc cho đến khi những yêu sách của Mỹ được đáp ứng đầy đủ.
- Phương thức lựa chọn C: phương thức “bóp nghẹt dần dần”, đánh các mục tiêu thâm nhập trước hết ở Lào rồi ở Bắc Việt Nam, tiếp đó đến các mục tiêu khác ở Bắc Việt Nam. Phương thức này gồm cả khả năng Mỹ triển khai quân bộ ở phía bắc Nam Việt Nam, coi như một con bài để mặc cả.
Tổng thống Johnson và các quan chức chủ chốt Nhà Trắng, Lầu Năm góc, CIA đã tranh cãi gay gắt về các giải pháp của Maxel Taylor và một số người khác đưa ra, cuối cùng họ đi đến thống nhất quan điểm là chọn phương án C, phải giữ vững chính quyền Sài Gòn để "chứng minh cho nhân dân Mỹ, cho đồng minh và cho kẻ thù về hình ảnh của một nước Mỹ siêu cường". Mục tiêu của Mỹ là phải đảo ngược chiều hướng xuống dốc này của Nam Việt Nam bằng cách sử dụng quân Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh ở miền Nam, đồng thời mở rộng việc ném bom liên tục miền Bắc Việt Nam cho đến khi Mỹ đạt được thắng lợi
Nội dung[sửa | sửa mã nguồn]
Mỹ tính toán rằng quân đội VNCH vẫn tồn tại, chương trình bình định bị đình đốn, nhưng chính quyền VNCH vẫn còn kiểm soát được nhiều khu vực đông dân và các thành phố, thị trấn, còn khống chế được các đường giao thông chiến lược... các nước lệ thuộc của Mỹ như Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc... không thể không ủng hộ chính sách can thiệp của Mỹ. Những phản ứng của các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ được Mỹ đánh giá là có “mức độ”, chưa có gì đáng lo ngại đối với chiến lược của Mỹ ở Việt Nam. Vả lại, Mỹ cho rằng có thể lợi dụng sự bất hoà trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, không sợ gây ra xung đột quốc tế mở rộng.
Lý thuyết về “chiến tranh cục bộ” của Mỹ xác định rằng khi các “hoạt động lật đổ” ở nước đối phương phát triển đến mức độ cao và “lực lượng lật đổ” đã có những đơn vị chủ lực mạnh thì phải dùng đến sức mạnh quân sự của Mỹ (dùng quân chiến đấu Mỹ trực tiếp xâm lược) ở mức độ hạn chế. Họ cho rằng, như thế là có thể đè bẹp và tiêu diệt được khối chủ lực đối phương trong thời gian ngắn nhất. Tiến hành chiến tranh cục bộ, Mỹ hy vọng xuất con bài quân viễn chinh Mỹ sẽ ngăn chặn được thế thua, từng bước phản công giành lại quyền chủ động, sẽ mau chóng chuyển bại thành thắng. Như vậy, đưa quân viễn chinh vào tham chiến trên quy mô lớn, tính toán của Mỹ không chỉ giới hạn ở việc gỡ thế thua, cứu nguy sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn mà chủ yếu là giành thắng lợi quyết định về chiến lược, nhanh chóng đảo lộn thế cờ.
Để thực hiện mục tiêu trên, Mỹ đề ra kế hoạch 3 giai đoạn dự định giành thắng lợi trong vòng hai năm rưỡi:
- Giai đoạn 1: “chặn chiều hướng thua”, bảo đảm triển khai nhanh lực lượng quân viễn chinh Mỹ.
- Giai đoạn 2: mở phản công chiến lược diệt chủ lực quân Giải phóng và kiểm soát nông thôn.
- Giai đoạn 3: hoàn thành việc tiêu diệt khối chủ lực quân Giải phóng, phá căn cứ, tiếp tục bình định miền nam, rút quân Mỹ vào cuối năm 1967.
Kế hoạch 3 giai đoạn nói trên khá rõ tham vọng của Mỹ tập trung lực lượng diệt chủ lực đối phương, bình định nông thôn, diệt cơ sở chính trị, leo thang ném bom miền bắc Việt Nam, ngăn chặn mọi nguồn chi viện, cô lập miền nam. Từ đó “chặn chiều hướng thua”, dồn đối phương vào thế phòng ngự bị động, xoay chuyển cục diện chiến tranh, giành thắng lợi cho chiến tranh trong thời gian ngắn bằng lực lượng Mỹ.
Với mục tiêu, kế hoạch, biện pháp trên, chiến lược “chiến tranh cục bộ” có một số đặc điểm khác với chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
- Đặc biệt chủ yếu là Mỹ không phải chỉ lấy lực lượng vũ trang bản xứ làm công cụ tiến hành chiến tranh, mà các tung đội quân viễn chinh Mỹ vào trực tiếp tác chiến chống lực lượng vũ trang và nhân dân Việt Nam. Quân viễn chinh Mỹ được huy động với quy mô lớn trong thời gian ngắn, kèm theo là một khối lượng khổng lồ binh khí kỹ thuật, vật tư, bom đạn.
- Một điểm nữa là quân viễn chinh Mỹ tuy là con chủ bài, là lực lượng nòng cốt, nhưng quân đội Sài Gòn vẫn được tận dụng như một lực lượng hỗ trợ quan trọng. Quân Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu để “tìm diệt” chủ lực, quân VNCH là lực lượng chiếm đóng để “bình định” lãnh thổ.
Quân viễn chinh Mỹ và quân VNCH đều có vai trò chiến lược. Trên cơ sở sử dụng cả quân Mỹ và quân VNCH, có ưu thế lực lượng, Mỹ tính toán mỗi tỉnh ở miền nam Việt Nam sẽ có một, hai vạn quân VNCH tràn về các xã ấp, tiêu diệt cơ sở chính trị, đẩy chủ lực quân Giải phóng lên các vùng hẻo lánh. Mỹ cũng tính toán, với sức mạnh của không lực hiện đại Mỹ cùng với khối lượng bom đạn rất lớn, hai miền nam bắc bị tàn phá, bị chia cắt, chủ lực quân Giải phóng sẽ bị đẩy vào thế khốn quẫn. Từ đó những đơn vị tinh nhuệ Mỹ sẽ giáng những đòn quyết định “bẻ gãy xương sống” và đánh tan quân Giải phóng, hoặc nếu còn cũng chỉ là những đơn vị phân tán hoạt động lẻ tẻ, khó làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Vì hạn chế lực lượng quân Mỹ, cho nên Mỹ rất chú trọng củng cố quân đội phụ thuộc bản xứ. Mỹ cho rằng với lực lượng quân Mỹ làm nòng cốt cùng với quân đội bản xứ được trang bị hiện đại, lại tiến hành chiến tranh xâm lược ở một nước kinh tế chậm phát triển, thì sẽ có ưu thế về binh lực, hoả lực, sức cơ động để áp đảo đối phương, và Mỹ sẽ thắng trong thời gian ngắn.
Nói chung, chiến tranh cục bộ với nỗ lực quân sự cao nhất mà Mỹ có thể và cần phải chủ động vẫn là một loại “chiến tranh hạn chế” trong chiến lược toàn cầu “phản ứng linh hoạt”. Quy mô của chiến tranh tuy lớn, nhưng vẫn mang tính chất “chống nổi dậy” (counter insurgency) nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của Mỹ ở miền nam Việt Nam. Nội dung của cuộc chiến tranh bao gồm ba bộ phận: tiêu diệt bộ đội chủ lực quân Giải phóng, “bình định nông thôn”, nhằm phá hết cơ sở hạ tầng của cách mạng và phá hoại miền bắc chủ yếu bằng không quân nhằm đánh vào cái gọi là "nguồn gốc của sự nổi dậy". Đồng thời, tiến hành thương lượng hoà bình để buộc VNDCCH chấp nhận những điều kiện mà Mỹ đưa ra.
Dựa vào ưu thế quân sự, với số quân đông, vũ khí hiện đại, hỏa lức mạnh, Mĩ vừa mới vào miền Nam đã cho quân mở ngay cuộc hành quân "tìm diệt" vào căn cứ quân giải phóng ở Vạn Tường (Quảng Ngãi). Tiếp đó, Mĩ mở liền hai cuộc phản công chiến lược mùa khô[6]: đông - xuân 1965-1966 và 1966-1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định"
Quân chủ lực | Quân Đồng minh của Mỹ | Quân bản địa |
---|---|---|
Quân đội Mỹ | Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Thái Lan, Philipines | Quân đội Sài Gòn |
Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]
Thực hiện những quyết định trong Bị vong lục 328 – NSAM, ngày 10-4-1965, tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ 2/3 (Tiểu đoàn 2, Trung đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3) đổ bộ vào Đà Nẵng, hai đại đội của tiểu đoàn này được máy bay lên thẳng chuyển đến Phú Bài. Ngày 14-4, các tốp máy bay đầu tiên của phi đội máy bay hải quân 551 hạ cánh xuống Đà Nẵng và tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ 3/4 (Tiểu đoàn 3, Trung đoàn lính thuỷ đánh bộ số 4), tới Phú Bài để thay thế cho các đại đội của tiểu đoàn 2/3. Từ ngày 3 đến ngày 5-5, Lữ đoàn 9 được tăng thêm ba tiểu đoàn đổ bộ lên Chu Lai.
Ngày 1-5-1965, tướng Westmoreland trình lên Nhà Trắng kế hoạch chiến lược ba giai đoạn gọi là Chương trình hợp tác gồm ba nội dung tảo thanh, bảo đảm an ninh, Tìm và diệt.[7]
- Giai đoạn 1: Từ tháng 7-1965 đến tháng 12-1965 đưa nhanh quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ vào miền Nam để ngăn chặn chiều hướng sụp đổ của chế độ Sài Gòn, bảo đảm an toàn cho những khu vực đông dân cư, gấp rút triển khai lực lượng chuẩn bị cho cuộc phản công giành lại quyền chủ động chiến trường.
- Giai đoạn 2: Từ đầu năm 1966 đến tháng 6-1966, quân Mỹ và lực lượng “đồng minh” mở các cuộc hành quân tìm diệt ở những khu vực ưu tiên đã được xác định, tiêu diệt lực lượng chủ lực Quân giải phóng, phá các căn cứ du kích, hỗ trợ cho chương trình bình định.
- Giai đoạn 3: Từ tháng 7-1966 đến giữa hoặc cuối 1967, quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc phối hợp với quân của chính quyền Sài Gòn mở các cuộc hành quân tiến công tiêu diệt các lực lượng còn lại của Quân giải phóng và các khu căn cứ du kích, hoàn thành về cơ bản chương trình bình định.
Quyết giành thắng lợi bằng quân sự, Mỹ đã đẩy nhanh việc đưa ồ ạt quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc Mỹ vào miền Nam. Từ tháng 7 đến cuối năm 1965, các Sư đoàn bộ binh 1 (Anh cả đỏ), Sư đoàn kỵ binh không vận 1, Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn Kị binh không vận 101 (Thiên thần mũi đỏ), Lữ đoàn 3, Sư đoàn bộ binh 25 (Tia chớp nhiệt đới), Trung đoàn kỵ binh thiết giáp 11, v.v… cùng hàng vạn tấn phương tiện chiến tranh hiện đại ùn ùn đổ vào miền Nam Việt Nam. Hạm đội 7 - hạm đội hùng hậu nhất của Hải quân Mỹ được mệnh danh "chúa tể đại dương" trước kia hướng hoạt động ở Đông Bắc Á, nay tập trung hướng hoạt động vào vùng biển Đông Nam Á mà trọng điểm là Việt Nam, cùng hàng vạn lính Mỹ đóng ở Thái Lan, Philíppin, đảo Okinawa, đảo Guam... đều được sử dụng trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Quân các nước phụ thuộc Mỹ có 20.500 lính gồm Sư đoàn bộ binh Mãnh hổ, Lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ Rồng xanh Hàn Quốc, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Hoàng gia Ôxtrâylia, Đại đội pháo binh New Zealand. Tây Ban Nha, Đài Loan cũng đưa sang Nam Việt Nam 43 cố vấn quân sự và chuyên gia giúp Mỹ. Quân đội Sài Gòn có 520.000 quân, biên chế thành 10 sư đoàn và 5 trung đoàn.
Với lực lượng đông, tinh nhuệ và hiện đại, Vecler - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân bảo đảm với Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara “không có lý do gì chúng ta (Mỹ) lại không thể thắng nếu đó là quyết tâm của chúng ta”[7]. Những nhân vật “diều hâu” trong giới cầm quyền Mỹ tin tưởng tuyệt đối rằng “cùng lắm trong vòng 18 tháng (cuối 1966), Mỹ sẽ chiến thắng, lúc đó Việt cộng và Hà Nội sẽ phải chịu thua, chấm dứt kháng chiến. Và, trên bình diện thế giới, chúng ta (Mỹ) sẽ chứng minh được cho các dân tộc thấy rằng chiến tranh cách mạng không đem lại kết quả gì, cuộc khởi nghĩa nào cũng có thể bị tiêu diệt”[8]
Đối sách của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]
Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng nước Mỹ giàu, quân Mỹ mạnh, trang bị hiện đại, nhưng Mỹ vào miền Nam "trong hoàn cảnh quân đội Sài Gòn đã thua trận, chính quyền tay sai rệu rã, chiến tranh đặc biệt đã thất bại, chúng mất thế chủ động chiến lược, trong khi đó lực lượng cách mạng đang nắm quyền chủ động chiến trường, xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, liên hoàn ở cả ba vùng chiến lược."[9]
Lực lượng vũ trang ba thứ quân cũng phát triển cân đối và lớn mạnh vượt bậc so với những năm đầu chiến tranh. Năm 1964, lực lượng vũ trang Quân Giải phóng miền Nam (chỉ tính riêng bộ đội chủ lực) có 11 trung đoàn và 15 tiểu đoàn, đến cuối năm 1965 đã phát triển lên 5 sư đoàn và 11 trung đoàn bộ binh, nhiều tiểu đoàn, trung đoàn binh chủng kỹ thuật. Lực lượng đặc công, biệt động là binh chủng đặc biệt tinh nhuệ, từ những đội, những tổ hoạt động nhỏ lẻ trên các chiến trường, nay phát triển thành nhiều trung đoàn, tiểu đoàn, đội đặc công, biệt động, trong đó có sư đoàn đặc công 100 gồm chín đội đặc công Nam Bộ hợp thành... Ở khu 5, Tây Nguyên, Trị - Thiên, các tiểu đoàn đặc công 406, 407, 408, 409, 487... là những đơn vị dạn dày kinh nghiệm đánh hậu cứ địch.
Chiến tranh càng mở rộng và kéo dài, thì mâu thuẫn càng bộc lộ và bị khoét sâu mà Nhà Trắng, Lầu Năm góc Mỹ không thể nào khắc phục được. Đó là[10]:
- Mâu thuẫn giữa mục đích muốn giấu mặt trá hình để áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới nhưng buộc phải tiến hành chiến tranh bằng quân viễn chinh Mỹ, nên nhanh chóng bị lộ mặt.
- Mâu thuẫn giữa tiến hành chiến tranh xâm lược nhưng phải xây dựng cho được chính quyền, quân đội tay sai bản xứ làm chỗ dựa và là công cụ của Mỹ nhằm áp đặt cho được chủ nghĩa thực dân kiểu mới.
- Mâu thuẫn khi buộc phải tiến hành chiến tranh để giữ vững và củng cố chính quyền, quân đội tay sai với thực tế càng tiến hành chiến tranh thì chính quyền, quân đội đó càng lục đục, suy yếu, lệ thuộc Mỹ, đồng thời kéo theo sự suy yếu của chính bản thân Mỹ.
- Mâu thuẫn giữa sức mạnh quân sự vốn có, nhưng do phi nghĩa và đặc điểm của thời đại chi phối, lại phải tiến hành chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, nên Mỹ không thể sử dụng hết sức mạnh quân sự của bản thân trong cuộc chiến tranh cách xa nước Mỹ.
vì vậy, phương châm đấu tranh được đề ra là: đẩy mạnh đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công Quân sự-Chính trị-Ngoại giao.[10]
Và ngày 20-7-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi: “Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”.[11] Nói chuyện với cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết Trung ương lần thứ 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Bây giờ Mỹ có 20 vạn quân ở miền Nam, nó có thể đưa thêm vào hơn nữa đến 30, 40, 50 vạn quân. Ta vẫn thắng, nhất định ta thắng. Ta nói như thế không phải để tuyên truyền, mà căn bản là như thế...”[12]
Trong Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất họp tài Lò Gò, phía tây bắc tỉnh Tây Ninh từ ngày 2 đến ngày 6-5-1965, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phát động phong trào thi đua Quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương nêu quyết tâm Cứ đánh Mỹ sẽ tìm ra cách đánh thắng Mỹ.
Năm mở màn 1965[sửa | sửa mã nguồn]
Phát hiện được đơn vị chủ lực đối phương ở cách Chu Lai 17 km về phía đông nam, Westmoreland ra lệnh cho lính thuỷ đánh bộ mở cuộc hành quân mang tên Ánh sáng sao (Starlite) đánh vào Vạn Tường, nhằm tiêu diệt Trung đoàn 1 Quân giải phóng, gây uy thế cho quân Mỹ. Đêm 17-8-1965, năm tàu chiến và sáu tàu đổ bộ Mỹ đậu ngoài biển đối diện với ấp An Cường, bắn dồn dập hàng ngàn quả đạn đại bác vào các thôn xóm. Mờ sáng 18-8-1965, Mĩ huy động 9.000 quân, 105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay phản lực chiến đấu, 6 tàu chiến, mở cuộc hành quân vào thôn Vạn Tường. Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng quân du kích và nhân dân địa phương đã đẩy lùi được cuộc hành quân của Mĩ, loại khỏi vòng chiến đấu 900 quân Mĩ, bắn cháy 22 xe tăng và xe bọc thép, hạ 13 máy bay. Đêm 18 rạng 19 lực lượng quân Giải phóng bí mật rút khỏi Vạn Tường an toàn.
Chiến thắng Vạn Tường chứng minh rằng quân Giải phóng hoàn toàn có khả năng đánh bại quân đội Mỹ trong điều kiện địch có ưu thế về binh, hoả lực và sức cơ động. Vạn Tường đã mở đầu cao trào "Tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt" trên khắp miền Nam
Sau trận thắng ở Vạn Tường, quân Giải phóng tiếp tục tiến công quân Mỹ ở Thuận Ninh (18-9), Cát Sơn, Cát Hiệp (10 và 14- 10) thuộc tỉnh Bình Định; bắn pháo vào sân bay Đà Nẵng, Chu Lai (24-10) phá huỷ, phá hỏng 163 máy bay các loại, diệt nhiều lính Mỹ.
Ngày 19-10-1965, Quân giải phóng Tây Nguyên mở chiến dịch Plâyme, cách thị xã Plâycu khoảng 30 km về phía tây nam. Không gian chiến dịch diễn ra trong tứ giác Plâyme - Bầu Cạn - Đức Cơ - Plây Thê thuộc huyện 5, nay là huyện Chư Prông với diện tích 1.200 km2.
Kết thúc chiến dịch Plâyme, quân Giải phóng tiêu diệt một chiến đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp quân đội Sài Gòn, phá huỷ 89 xe quân sự, tiêu diệt Tiểu đoàn 2/7, đánh thiệt hại Tiểu đoàn 1/7 kỵ binh bay Mỹ; bắn rơi, phá hỏng 59 máy bay lên thẳng. Phía Mỹ xác nhận trong trận Ia Đrăng có 824 lính Mỹ chết và bị thương, trong đó có 304 chết. Tướng Mỹ G. Moore và L. Galoway phóng viên chiến tranh, đã chiến đấu trong trận Ia Đrăng sau này nhận định rằng: “Ia Đrăng - trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam”.[13]
Sau năm 1965, khả năng chiến thắng Mĩ trong chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và dân Việt Nam tiếp tục được chứng minh trong hai mùa khô[6]
Bước vào mùa khô thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]
Mùa khô đến là điều kiện hết sức thuận lợi trong việc sử dụng hoả lực có phối hợp của không quân, hải quân, pháo binh và xe tăng, mà những thứ vũ khí hiện đại này chỉ quân Mỹ mới có, nên Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn ráo riết chuẩn bị, triển khai lực lượng trên các hướng, sẵn sàng tiến công ồ ạt và bất ngờ trên diện rộng, cụ thể hoá thành năm điểm:
- Tiêu diệt một bộ phận chủ lực quân Giải phóng giành lại chủ động trên chiến trường, buộc đối phương phải phân tán, do đó không đủ khả năng đánh lớn.
- Bình định có trọng điểm, giành dân, đánh phá hậu cần dự trữ.
- Ổn định tình hình chính trị, củng cố quân đội và chính quyền VNCH.
- Khai thông các hệ thống giao thông giữa các vùng chúng kiểm soát với nhau.
- Đánh phá miền Bắc, cô lập miền Nam.
Đông - xuân 1965-1966, với 720.000 quân (trong đó có 220.000 quân Mĩ, còn lại là quân đồng minh và quân đội Sài Gòn), gồm 14 sư đoàn, 9 lữ đoàn và trung đoàn bộ binh Mỹ, VNCH và các nước phụ thuộc Mỹ, hơn 1.000 khẩu đại bác, 1.342 xe tăng, xe bọc thép, 2.288 máy bay các loại, 541 tàu, xuồng chiến đấu. Mỹ mở đợt phản công với 5 cuộc hành quân "tìm diệt" lớn nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở Đông Nam Bộ và khu V[14], gọi là “chiến dịch Năm mũi tên”. Mục tiêu đánh bại quân chủ lực Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
Trên hướng thứ nhất, Củ Chi là trọng điểm, địch mở cuộc hành quân “Cái bẫy” nhằm diệt cơ quan đầu não Quân khu Sài Gòn - Gia Định và triệt hạ vùng giải phóng Củ Chi. Trong cuộc hành quân “Cái bẫy”, Mỹ tập trung 12.000 quân (có 8.000 lính Mỹ), 200 máy bay, 600 xe quân sự, 100 đại bác đánh vào Củ Chi, hòng dồn lực lượng quân Giải phóng vào vùng Hố Bò để tiêu diệt. Với lực lượng lớn, ưu thế binh lực, hoả lực, lính Mỹ tin chắc sẽ đánh bại quân Giải phóng.
Tuy nhiên, sau 12 ngày đêm liên tục chiến đấu (từ 8 đến 19-1), quân Mỹ không đạt được mục tiêu nào. Quân và dân Củ Chi đã đánh 200 trận lớn, nhỏ, diệt và làm bị thương gần một ngàn quân Mỹ, VNCH, bắn rơi 84 máy bay (phần lớn là HU-1A), phá huỷ và phá hỏng 77 xe quân sự (có 56 xe bọc thép M-113), hai pháo 105mm. Trong cuộc hành quân tìm diệt này, quân Mỹ đã san bằng gần 3.000 ngôi nhà, triệt hạ hàng ngàn hécta vườn cây, ruộng lúa, càn nát nhiều giao thông hào, đánh sập một số cửa địa đạo. Mặc dù vậy, cuộc hành quân “Cái bẫy” của Mỹ không đạt được mục tiêu đề ra là tiêu diệt cơ quan đầu não và đơn vị chủ lực Quân giải phóng. Ngày 19- 1, Mỹ buộc phải kết thúc và rút các lữ đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn Anh cả đỏ xuống nam Củ Chi để lập căn cứ tại Đồng Dù. Tại đây, quân Mỹ đã san bằng 2.000 ngôi nhà, nhiều vườn cây, trong đó có 350 hecta cây cao su của xã Phước Vĩnh An để làm căn cứ đóng quân cho 4.500 lính Mỹ (gồm Sư đoàn bộ và Lữ đoàn 2, Sư đoàn 25).
Tiếp đến, trong tháng 4 và 5-1966, Lữ đoàn 1, Lữ đoàn 3, Tiểu đoàn cơ giới của Sư đoàn 25 Tia chớp nhiệt đới Mỹ, lần lượt được điều đến chiến trường bắc Long An, cùng Lữ đoàn dù 173 càn quét chà xát từ Bàu Trai - Đức Lập (Hậu Nghĩa) sang Bến Lức, Vườn Thơm - Bà Vụ, tiến đánh Đức Hoà, Đức Huệ từng đợt năm, sáu ngày cho đến lúc kết thúc cuộc phản công mùa khô thứ nhất (30-5-1966). Ở đây, hàng ngàn lính Mỹ đã bị thương vong. Đặc biệt, lần đầu tiên trên chiến trường khu VIII, tại Bàu Sen, một đại đội Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 đã bị diệt hoàn toàn. Ý đồ của Mỹ chặt đứt hành lang kháng chiến từ miền Đông xuống Đồng Tháp Mười không thực hiện được.
Đầu tháng 5, Mỹ mở cuộc hành quân Birminghom đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu, với lực lượng hai lữ đoàn thuộc Sư đoàn 1 Anh cả đỏ và Lữ đoàn dù 173. Phạm vi càn quét tương đối rộng từ Tàpang, Lò Gò, Bàu Cỏ, Sóc Ky đến suối Ông Hùng, Bến Củi. Nhưng đi đến đâu, Mỹ cũng không gặp được chủ lực đối phương, còn thường xuyên bị bộ đội chủ lực tại chỗ, du kích cơ quan đánh chặn gây cho chúng nhiều thương vong. Nắm vững thời cơ Mỹ phải đối phó với lực lượng tại chỗ, Sư đoàn 9 chủ lực Miền tiến công vào cụm quân của Sư đoàn 1 Mỹ ở Bầu Sắn (Tây Ninh), đánh thiệt hại một chiến đoàn của Mỹ, bẻ gãy cuộc hành quân vào Chiến khu Dương Minh Châu.
Kết quả mùa khô 1965-1966, quân và dân tại miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 67.000 địch, trong đó có hàng vạn lính Mỹ, đánh thiệt hại 9 tiểu đoàn Mỹ, 7 tiểu đoàn quân Sài Gòn, bắn rơi, phá huỷ 940 máy bay (hầu hết là máy bay lên thẳng), phá huỷ và phá hỏng 6.000 xe quân sự (có 300 xe tăng, xe bọc thép).
Bước vào mùa khô 1966-1967[sửa | sửa mã nguồn]
Mỹ quyết định mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai vào mùa khô 1966-1967, dự tính từ tháng 10-1966 đến tháng 6-1967. Ý đồ của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược lần này là cố giành một thắng lợi quân sự lớn trên chiến trường, tạo một bước ngoặt, tiến tới giành những thắng lợi quyết định. Về chiến lược, lần này địch không phân tán lực lượng đánh trên nhiều hướng mà tập trung đánh vào miền Đông Nam Bộ, đồng thời chú trọng đẩy mạnh kế hoạch bình định, mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn - Gia Định, kiềm chế các hướng Tây Nguyên, Trị - Thiên.
Cụ thể là: ưu tiên tập trung lực lượng tiến công vào hệ thống căn cứ quân Giải phóng ở Tây Ninh, Bình Dương, Long An, Hậu Nghĩa, Phước Tuy, trọng điểm là Chiến khu Dương Minh Châu, diệt cơ quan đầu não và một bộ phận chủ lực, kết hợp với việc mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn. Trong phản công chiến lược lần thứ hai này, cùng một lúc Mỹ thực hiện cả hai nhiệm vụ “tìm diệt” và “bình định”, gọi là "chiến lược hai gọng kìm”. Trong đó lớn nhất là chiến dịch Junction City (Gian-xơn Xi-ti) đánh vào căn cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh), nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
Để thực hiện kế hoạch chiến lược trên đây, những tháng cuối năm 1966 và đầu năm 1967, Mỹ đưa thêm vào miền Nam nước ta hai Sư đoàn bộ binh số 4 và số 9, nâng tổng số quân Mỹ có mặt ở Nam Việt Nam lên 389.000 vào cuối tháng 12-1966. Mỹ còn dự kiến sẽ tăng quân Mỹ ở Nam Việt Nam lên 459.000 cho năm 1967. Nhưng mới đến tháng 8-1967, tình hình quân sự, chính trị của Mỹ và Sài Gòn ở Việt Nam biến chuyển theo chiều hướng đi xuống không có lợi cho Mỹ, nên phải trù tính tăng quân Mỹ lên 542.588 vào cuối năm 1967. Phương tiện chiến tranh cũng được bổ sung nhiều gần gấp 1,5 lần so với mùa khô lần thứ nhất. Tính đến tháng 12-1966, số máy bay đưa vào Việt Nam lên tới 3.500 chiếc và đến tháng 5-1967 tăng lên 4.300 chiếc; xe tăng, thiết giáp 2.500 chiếc, pháo 2.540 khẩu, v.v... Nếu tính cả lực lượng Mỹ ở Hạm đội 7, Thái Lan, Philippin, Guam, tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì tổng số quân tham chiến lên tới 1.200.000, riêng quân Mỹ 60 vạn.
Cuộc phản công bắt đầu vào ngày 14-9-1966 bằng cuộc hành quân cấp quân đoàn đầu tiên: chiến dịch Attleboro. Không gian của cuộc hành quân từ Trảng Bàng đến Gò Dầu Hạ nằm trên đường số 1 và Trại Đèn trên đường 13 (Tây Ninh), nhằm tìm diệt một bộ phận chủ lực Giải phóng (Sư đoàn 9 và Trung đoàn 16), hỗ trợ cho việc bình định quanh Sài Gòn. Tham gia cuộc hành quân này có lực lượng của Sư đoàn 1 Sư đoàn 25 (thiếu), Lữ đoàn 196, một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn dù 173 Mỹ cùng chín tiểu đoàn quân Sài Gòn, chưa kể lực lượng pháo binh, thiết giáp và không quân (có cả B-52) chi viện. Tất cả khoảng 30.000 quân.
Mỹ mở cuộc hành quân cấp quân đoàn thứ hai, chiến dịch Cedar Falls vào vùng “tam giáp sắt” (Bến Súc - Củ Chi - Bến Cát). Đây là nơi có cơ quan đầu não của Quân khu Sài Gòn - Gia Định. Bộ Chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam tập trung một lực lượng lớn binh lực vào cuộc hành quân Xêđa Phôn không kém gì cuộc hành quân Áttơnborơ, bao gồm Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ, Lữ đoàn 3 Sư đoàn bộ binh số 4, Lữ đoàn 2 Sư đoàn bộ binh số 25, Lữ đoàn bộ binh nhẹ số 196 (vừa được củng cố lại sau thất bại trong cuộc hành quân Áttơnborơ), Lữ đoàn dù 173, Trung đoàn thiết giáp số 11 Mỹ và một bộ phận Sư đoàn 5 chủ lực quân VNCH cùng một số lính đánh thuê Niu Dilân với hơn 400 xe tăng, xe bọc thép, 800 tàu xuồng chiến đấu trên sông, hơn 100 khẩu pháo các loại và nhiều máy bay, kể cả B-52.
Diễn biến của cuộc hành quân hoàn toàn không như quân Mỹ dự tính. Rất ít quân du kích bị đánh bật ra ngoài hoặc bị chết. Hệ thống hầm ngầm không bị triệt phá mà chỉ bị hư hại. Hố bom loang lổ, hàng mảng đất bị cày xới lên bằng máy xúc. Song không có quả bom nào, không có máy xúc nào của địch khoét đủ sâu để phá hoại hầm ngầm. Cái khó không phải hệ thống hầm ngầm đào quá sâu mà chính vì nó chạy ngoắt ngoéo không một chỗ nào là thẳng. Những cửa ngách và lỗ thông hơi thì nhiều vô kể, điều đó hạn chế khả năng bị phá huỷ. Các sĩ quan Mỹ trong cuộc càn Xêđa Phôn đều có chung nhận xét như vậy.
Chiến dịch Junction City - ĐỈNH CAO CỦA CHIẾN LƯỢC TÌM DIỆT
Theo tính toán của Westmoreland, Tây Ninh không chỉ là căn cứ của Trung ương Cục miền Nam, Bộ chỉ huy Miền, Mặt trận Dân tộc giải phóng, mà còn là nơi tích trữ vật chất, có nhiều kho dự trữ chiến lược; là địa bàn đóng quân của lực lượng chủ lực (tức Sư đoàn 9). Vì vậy tuy đã thất bại trong cuộc hành quân lớn trước đó Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn vẫn quyết định mở cuộc hành quân quy mô lớn mang tên Gianxơn Xity, tập trung lực lượng đông đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh).
Để thực hiện những mục tiêu trên, Mỹ huy động đại bộ phận quân Mỹ triển khai ở miền Đông Nam Bộ và một phần quân Sài Gòn. Lực lượng này bao gồm chín lữ đoàn bộ binh Mỹ (ba lữ của Sư đoàn bộ binh 1; hai lữ của Sư đoàn bộ binh 25; một lữ của Sư đoàn bộ binh số 4; một lữ của Sư đoàn bộ binh 9, Lữ đoàn 196 và Lữ đoàn dù 173), một lữ đoàn thuỷ quân lục chiến Sài Gòn. Ước tính quân số khoảng 45.000 và trên 1.000 xe tăng, xe bọc thép, hàng trăm khẩu pháo các loại, cùng nhiều máy bay.
Phương án tác chiến được Bộ chỉ huy Miền xác định: "Bộ đội chủ lực khi tập trung, lúc phân tán linh hoạt, sẵn sàng cơ động, phối hợp và hỗ trợ cho du kích cơ quan thực hiện đánh nhỏ, đánh vừa, tạo điều kiện đánh những trận lớn, tiêu diệt được tiểu đoàn, chiến đoàn địch, bẻ gãy các mũi hành quân của chúng vào vùng căn cứ cách mạng."
Sau mấy ngày đầu của cuộc hành quân, các mũi tiến công của Mỹ đều không phát triển được, đi đến đâu cũng bị du kích, bộ đội địa phương đánh thương vong. Tinh thần sĩ quan, binh lính Mỹ rã rời. Hãng tin Pháp AFP ngày 22-2 đưa tin và bình luận: “Cuộc hành quân Gianxơn Xity được coi là một trong những hy vọng lớn của Mỹ trong giai đoạn trước mắt, cuộc hành quân có nhiều tham vọng nhất trong cuộc chiến tranh, nhưng kết quả thật đáng buồn, trong bốn ngày qua không thấy dấu vết lãnh đạo Mặt trận Dân tộc giải phóng đâu cả. Đài phát thanh Mặt trận Dân tộc giải phóng vẫn tiếp tục hoạt động mặc dù một trong những mục tiêu của cuộc hành quân là làm cho nó câm đi...”.[15]
Ngày 13-3-1967, các cánh quân Mỹ bắt đầu rút khỏi căn cứ Dương Minh Châu. Đợt một của cuộc hành quân Gianxơn Xity đã bị thất bại
Từ ngày 15-3, Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn triển khai giai đoạn hai cuộc hành quân Gianxơn Xity, lật cánh chuyển hướng tiến công chủ yếu sang phía đông căn cứ của ta. Thủ đoạn của địch lần này là bao vây rộng, thọc sâu, tiến chắc, dùng không quân oanh tạc dữ dội, dọn sạch những chướng ngại phía đông căn cứ. Tuy nhiên kết quả vẫn không khá hơn.
Ngày 15-5-1967, Westmoreland tuyên bố cuộc hành quân Gianxơn Xity chấm dứt. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nhận xét: “Cuộc hành quân Gianxơn Xity là một cuộc hành quân lớn nhất của quân Mỹ vào vùng căn cứ bắc Tây Ninh lại là cuộc hành quân thua đau nhất, là cái mốc đánh dấu đỉnh cao sự thất bại của chúng trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai trong âm mưu tìm diệt của chúng”[16]
Với thất bại này, về cơ bản, gọng kìm “tìm và diệt” của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai đã bị bẻ gãy. Như vậy, trong mùa khô 1966-1967, thực hiện gọng kìm tìm diệt chủ lực quân giải phóng, Mỹ chẳng những không thực hiện được ý đồ tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quan trọng lực lượng Giải phóng, mà còn bị đánh tiêu hao một phần lớn lực lượng. Tính chung sáu tháng mùa khô, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 175.000 lính (có 76.000 lính Mỹ, lính Nam Triều Tiên, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Philíppin), tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 49 tiểu đoàn và đơn vị tương đương, bắn rơi và phá huỷ 1.800 máy bay các loại, phá hỏng 1.783 xe quân sự, 340 khẩu đại bác, bắn chìm và bắn cháy 100 tàu xuồng, đánh sập và hỏng 270 cầu lớn nhỏ.
Làm thất bại gọng kìm Bình định[sửa | sửa mã nguồn]
Ngay từ cuối 1966, Mỹ đã tập trung một số lớn nhân tài, vật lực cho công cuộc bình định miền Nam. Về phía chính quyền Sài Gòn, lực lượng tham gia chương trình bình định gồm: 53 tiểu đoàn chủ lực, 177 đại đội địa phương, 5 đại đội cảnh sát dã chiến, 559 trung đội nghĩa quân, 552 đoàn cán bộ bình định. Riêng tại các địa bàn trọng điểm bình định ven đô Sài Gòn, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Dương, Long An, Tây Ninh, Bình Long (thuộc Vùng chiến thuật III), Trị - Thiên, Bình Định, Tuy Hoà, Quảng Ngãi, Plâycu, Kon Tum (thuộc Vùng chiến thuật I và II), Vĩnh Long, Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Kiến Phong (thuộc Vùng chiến thuật IV), ngoài lực lượng quân Sài Gòn, Mỹ huy động thêm 40 tiểu đoàn Mỹ, 1.500 chuyên gia bình định, một số đơn vị quân Nam Triều Tiên, Ôxtrâylia.
Song song với việc tăng cường lực lượng, Mỹ đã nâng tổng ngân sách đầu tư cho công tác bình định từ 8 tỷ (tiền Sài Gòn) năm 1966, lên 14 tỷ năm 1967. Với sức mạnh được tập trung như vậy, Mỹ và chế độ Sài Gòn dự kiến đến hết năm 1967 sẽ củng cố và xây dựng được 3.500 ấp và trại tập trung, trong đó, xây dựng mới hoàn toàn là 1075 ấp, dồn được 1.315.000 dân. Đặc biệt, để phục vụ trực tiếp cho chương trình, Mỹ đã khẩn trương lựa chọn và đưa đi đào tạo đội ngũ cán bộ bình định của chính quyền Sài Gòn ở các trung tâm đào tạo trong và ngoài nước.
Do mục đích chương trình bình định là phải "phá cho được cơ sở hạ tầng, thủ tiêu hết các tổ chức và con người Việt cộng", nên Mỹ đã triệt để sử dụng các nguồn tài liệu thu được từ các cơ quan tình báo quân sự và dân sự của cả Mỹ và Sài Gòn, từ khẩu cung lấy được qua thẩm vấn những người bị bắt, sau đó dùng cảnh sát đặc biệt, mật vụ điều tra thẩm định, đối chiếu với thẻ căn cước xác định. Tất cả những người bị bắt bị bắt đều tập trung về các trại giam giữ và được phân ra làm ba loại: loại A là cán bộ lãnh đạo chủ chốt; loại B là đảng viên; loại C là cơ sở quần chúng cách mạng.
Kể từ lúc khởi đầu cuộc chiến tranh đến khi Mỹ mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, Khu V luôn là địa bàn “ưu tiên bình định”, nên nơi đây đã trở thành một trong những điển hình của phong trào chống bình định, phá ấp chiến lược ở miền Nam. Bước vào mùa khô năm 1966- 1967, rút kinh nghiệm trong mùa khô lần thứ nhất, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu V xác định: tiếp tục đẩy mạnh phương châm “ba bám” như đã thực hiện có hiệu quả trước đây, nay bổ sung thêm phương châm “cấp trên bám cấp dưới” đã kịp thời phát hiện, nghiên cứu các thủ đoạn đánh phá của địch, tìm ra cách đối phó kịp thời cho ta theo từng địa bàn. Từ đây “bốn bám” trở thành những phương châm hành động của các cấp, các ngành, của lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương.
Song song với thành công trong chống phá bình định, nhân dân hầu khắp các địa phương miền Nam đã xây dựng được hệ thống ấp, xã chiến đấu liên hoàn, vững chắc, mà điển hình là: Trà Vinh có xã An Trường; Bà Rịa có xã Long Tân, Long Điền, Đất Đỏ; Củ Chi có xã An Phú, Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây...; An Khê có xã Bắc, xã A1; Đắc Lắc có Khuê Ngọc Điền; Kon Tum có Đắc Uy; Quảng Ngãi có Hoà Bình; Quảng Nam - Đà Nẵng có Hoà Hải, Anh Dũng, v.v... Đây thực sự là những pháo đài vững chắc chống phá có hiệu quả các cuộc hành quân càn quét và bình định của Mỹ.
Cùng với thắng lợi trên mặt trận quân sự, công tác chống phá bình định cũng thu được kết quả bước đầu rất quan trọng. Kế hoạch bình định năm 1966 của Mỹ là bình định 900 ấp, củng cố 1.900 ấp. Nhưng đến tháng 6, quân dân Nam Bộ đã phá sạch 2.668 ấp. Khu VI phá 238 ấp trong tổng số 360 ấp, giải phóng 203.345 dân trong tổng số 744.400 dân; Khu V, Tây Nguyên và Trị - Thiên vùng giải phóng các tỉnh được mở rộng, liên hoàn với 2.125.000 dân đã giành được quyền làm chủ 233.000 dân còn trong vùng tranh chấp. Ngay những vùng Mỹ tập trung lực lượng để bình định như Long An, Củ Chi, Quảng Nam, Quảng Ngãi những làng xã chiến đấu cũng mọc lên liên hoàn. Tháng 10-1966, sau khi nghiên cứu các báo cáo về tình hình miền Nam kết hợp với chuyến đi miền Nam trước đó, Mắc Namara báo cáo với L. Giônxơn: “Công tác bình định chỉ có đi thụt lùi”[17]
Trong mùa khô 1966-1967, riêng trên mặt trận chống phá bình định, quân Giải phóng đã giành thêm được 390 ấp, xã; nâng số xã trong vùng giải phóng lên tới 700 xã, 6.750 ấp và dinh điền. Mỹ - VNCH chỉ thực sự kiểm soát được 5.400 ấp trên tổng số 16.293 ấp toàn miền Nam (số còn lại là ấp xã đang tranh chấp). Theo kế hoạch đặt ra năm 1967, Mỹ và Sài Gòn phải hoàn toàn kiểm soát được 3.500 ấp (có 1.076 ấp mới), nhưng thực tế chỉ lập được 291 ấp mới (mà số ấp bị phá là hơn 300), đạt khoảng 13% kế hoạch. Bộ Quốc phòng Mỹ thừa nhận rằng: “Những cố gắng ban đầu của Chính phủ Việt Nam cộng hoà nhằm định ra các chương trình bình định và phát triển nông thôn đã thất bại, vì đó là những chương trình đầu đuôi lẫn lộn được vạch ra một cách vụng về”. “Sau đó, những cố gắng của Mỹ nhằm giúp đỡ các chương trình bình định của Chính phủ Việt Nam cộng hoà lại phạm những sai lầm...” nên không tránh khỏi thất bại.[18]
Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại bằng Không quân của Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh phá miền Bắc nhằm hỗ trợ cho nỗ lực quân sự ở miền Nam Việt Nam luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Song song với quá trình đưa lục quân Mỹ vào miền Nam, Mỹ dùng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc trên quy mô lớn với cường độ ngày càng dữ dội. Đây là một bộ phận khăng khít của chiến lược chiến tranh cục bộ mà Mỹ triển khai thực hiện ở Việt Nam từ năm 1965.
Từ đầu năm 1964, trước sự tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược của Mỹ, Đảng Lao động đã có kế hoạch và biện pháp chuẩn bị. Hội nghị phòng không nhân dân toàn miền Bắc được triệu tập đầu năm 1964 đã bàn biện pháp triển khai và tăng cường hệ thống phòng không nhân dân ba thứ quân, biện pháp thực hiện kế hoạch sơ tán, phân tán nhân dân và nhà máy, công xưởng sản xuất khỏi những vùng trọng điểm địch đánh phá.
Lực lượng vũ trang gấp rút chấn chỉnh biên chế, tổ chức và tăng cường về quân số. Các đơn vị được lệnh tổ chức báo động, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu. Quân chủng Phòng không - Không quân hoàn chỉnh phương án chiến đấu, triển khai lực lượng theo hướng tập trung hoả lực bảo vệ các mục tiêu chủ yếu, đồng thời hình thành lực lượng chiến đấu tại chỗ, rộng khắp. Quân chủng Hải quân từ tháng 7-1964 chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu, tăng cường tuần tiễu vùng biển ven bờ, tổ chức Bộ Tư lệnh tiền phương ở vùng biển Quân khu IV. Các quân chủng, binh chủng khác cũng gấp rút hình thành phương án chiến đấu, bảo đảm giao thông trong điều kiện chiến tranh lan rộng ra cả nước. Các địa phương tập dượt huấn luyện chiến đấu, phục vụ chiến đấu sơ tán, phân tán tài sản và nhân dân...
Bên cạnh bộ đội phòng không chủ lực, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ phát triển nhanh chóng. Năm 1964, dân quân, tự vệ chiếm 8% so với dân số miền Bắc. Tỷ lệ đó đến cuối năm 1965 tăng lên 10%. Những năm 1966, 1967, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ được tổ chức thành nhiều tiểu đoàn, đại đội pháo phòng không, được trang bị từ súng máy cao xạ 12,7mm, 14,5mm đến cao xạ 37mm, 100mm. Riêng dân quân, tự vệ có 2.000 đơn vị trực chiến trên toàn miền Bắc, sẵn sàng phối hợp chiến đấu cùng bộ đội. Dân quân, tự vệ là lực lượng nòng cốt để xây dựng, phát triển phong trào toàn dân bắn máy bay, tàu chiến Mỹ, làm công tác phòng không nhân dân và bảo đảm giao thông vận tải, bảo vệ trị an. Ở nông thôn, dân quân, tự vệ còn là lực lượng xung kích trong sản xuất, xây dựng, đặc biệt là ở những địa bàn thường xuyên bị đánh phá ác liệt.
Các lực lượng vận tải và bảo đảm giao thông như công binh, vận tải quân sự, vận tải nhà nước, vận tải nhân dân... theo nhịp độ gia tăng của chiến tranh, cũng ngày càng lớn mạnh. So với năm 1965, đến năm 1968, số trung đoàn công binh trên miền Bắc tăng gấp 1,2 lần, số tiểu đoàn công binh tăng gấp 2 lần, số đại đội công binh tăng gấp 26 lần. Bên cạnh lực lượng tập trung, các tổ đội công binh của dân quân tự vệ cũng phát triển rộng khắp, đặc biệt dọc theo các tuyến giao thông huyết mạch. Các loại phương tiện bắc cầu, bảo đảm vượt sông đến năm 1968 tăng 2,6 lần so với năm 1965. Lực lượng vận tải quân sự của Bộ Quốc phòng, của các quân khu tăng từ 4 đến 5 lần.
Ngày 24-7-1965, bộ đội tên lửa phòng không lần đầu tiên ra quân hiệp đồng với một số trung đoàn cao xạ, bắn hạ ba máy bay F-4 ở độ cao 7.000 m trên vùng trời Bất Bạt (tỉnh Hà Tây). Với chiến công đầu này, ngày 24-7-1965 trở thành ngày truyền thống của Binh chủng tên lửa Quân đội nhân dân Việt Nam. Chiến công ngày 24-7-1965 mở ra khả năng mới, cho phép bộ đội phòng không, với hình thức cụm tác chiến cơ động tên lửa - cao xạ, tổ chức đánh máy bay Mỹ có hiệu quả cao, bảo vệ vững chắc các khu vực mục tiêu trọng điểm.
Kết thúc năm 1965 có 834 chiếc máy bay của không quân và hải quân Mỹ đã bị lực lượng phòng không ba thứ quân bắn hạ trên vùng trời miền Bắc, trong đó, các tháng 4, 9, 10 là những tháng máy bay Mỹ bị bắn rơi nhiều nhất.
Bước sang năm 1966, năm thứ hai kể từ khi cuộc chiến tranh cục bộ bắt đầu, để hỗ trợ cho cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất của quân Mỹ trên chiến trường miền Nam, không quân và hải quân Mỹ tăng cường nhịp độ, mở rộng quy mô đánh phá hệ thống giao thông miền Bắc. Máy bay ném bom chiến lược B-52 bắt đầu được sử dụng trên vùng trời miền Bắc. Hai ngày 14 và 27-4-1966, các tốp B-52 đã dội bom xuống khu vực đèo Mụ Giạ và trục đường 12 tây Quảng Bình hòng cắt đứt tuyến vận chuyển qua biên giới Việt - Lào vào tuyến vận tải chiến lược 559. Ngoài đánh cắt giao thông, không quân Mỹ còn tăng cường sục sạo tìm đánh phá các trận địa rađa, tên lửa, các khu công nghiệp miền Bắc: Nhà máy điện Uông Bí, Nhà máy điện Cao Ngạn, Mỏ than Cẩm Phả, Khu gang thép Thái Nguyên...
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara ghi nhận: “Các cuộc không kích chống lại Bắc Việt Nam tăng lên từ 25.000 vụ năm 1965 lên 79.000 vụ năm 1966 và 108.000 vụ năm 1967, và số lượng bom đạn ném xuống đây tăng từ 63.000 tấn lên 136.000 tấn, rồi 226.000 tấn”. Nhưng: “việc ném bom đã không đạt được các mục tiêu cơ bản của nó: trong khi chiến dịch “sấm rền” được đẩy mạnh, tình báo Mỹ dự đoán rằng, số quân xâm nhập vào miền Nam tăng từ khoảng 35.000 trong năm 1965 lên 90.000 trong năm 1967, trong khi đó, ý chí của Hà Nội tiếp tục cuộc chiến đấu rất vững chắc”
Từ tháng 5-1966 trở đi, bên cạnh việc gia tăng cường độ đánh phá toàn bộ các mục tiêu quân sự, dân sự trên miền Bắc, Tổng thống Mỹ L. Johnxơn ra lệnh ném bom hệ thống kho nhiên liệu, nhằm làm tê liệt hoạt động của miền Bắc, buộc người Việt Nam nao núng ý chí quyết tâm đánh Mỹ.
Sau hơn một tháng ném bom hệ thống kho dầu, cơ quan tình báo quốc phòng Mỹ báo cáo là 70% khả năng xăng dầu của miền Bắc Việt Nam đã bị tiêu huỷ. Nhà cầm quyền Mỹ rất phấn khởi khi nhận được tin này. Song, mùa Hè đi qua, miền Bắc Việt Nam vẫn có đủ xăng dầu để bảo đảm mọi hoạt động bình thường và tăng cường chi viện cho miền Nam. Vì nhiên liệu nhập từ Liên Xô, Trung Quốc, quân và dân miền Bắc đã chứa vào các phuy và bể, phân tán khắp các vùng nông thôn và dọc hai bên đường số 1, trên các nẻo đường liên tỉnh hướng vào Nam. Đánh phá hệ thống kho nhiên liệu ở miền Bắc là bước leo thang quan trọng trong cuộc chiến tranh không quân của Mỹ, nhưng rõ ràng là “việc oanh tạc các kho dầu đã thất bại, v.v... Không có bằng chứng gì chứng tỏ Bắc Việt Nam đã có thời kỳ khốn đốn về dầu”
Bước sang năm 1967, năm có tầm quan trọng chiến lược, không quân Mỹ tập trung đánh vào sáu hệ thống mục tiêu trên miền Bắc: điện lực, công nghiệp, giao thông vận tải, kho dự trữ nhiên liệu, sân bay và các trận địa phòng không, các cơ sở quân sự. Tháng 2-1967, Tổng thống Mỹ Giônxơn chuẩn y đề nghị của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, cho phép mở rộng phạm vi đánh phá trong khu vực Hà Nội, Hải Phòng; tiến hành rải mìn trên các luồng sông, cửa biển; dùng hải quân khống chế gắt gao khu vực ven biển từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20.
Để tăng sức uy hiếp từ biển, trong năm 1967, Mỹ huy động tới tám chiếc tuần dương hạm và tàu khu trục chuyên bắn vào các mục tiêu trên bờ biển miền Bắc. Các cuộc bắn phá của hải quân Mỹ ngày càng ác liệt, nhất là khu vực từ nam sông Gianh trở vào. Có những thời kỳ cao điểm, mỗi ngày tàu Mỹ dội vào đất liền hàng nghìn quả đạn pháo. Ngoài ra, máy bay B-52 và pháo binh từ bờ nam sông Bến Hải đánh phá dữ dội khu vực Hồ Xá, Vĩnh Linh. Theo tính toán của một số tác giả Mỹ, đến cuối năm 1967, Mỹ đã ném xuống miền Bắc Việt Nam 1.630.000 tấn bom các loại, nhiều hơn khối lượng bom đạn mà Mỹ ném xuống chiến trường châu Âu trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, gấp hai lần số bom ném xuống Triều Tiên, gấp ba lần số bom ném xuống chiến trường Thái Bình Dương trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.
Theo số liệu thống kê của Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam cho biết, trong bốn năm chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ (1964-1968), 14.000 quân nhân và 60.000 dân thường miền Bắc đã bị bom đạn Mỹ giết hại. Tuy nhiên theo Mc Namara, "những thiệt hại vật chất-nhân mạng vẫn không làm nao núng quyết tâm chống Mỹ của người Việt Nam"
Kết thúc năm 1967, thêm hàng chục lần chiếc tàu chiến Mỹ đã bị pháo bờ biển của lực lượng phòng thủ biển miền Bắc bắn cháy. Nhận xét về hiệu lực đánh trả của pháo binh, một tờ báo Mỹ viết: “Trong khi đánh nhau với pháo bờ biển miền Bắc Việt Nam, các tàu chiến Mỹ đã gặp phải sự chống trả ngày càng có hiệu lực. Các tàu khu trục và tuần dương phải chạy nhanh qua vùng nguy hiểm để bắn vào mục tiêu trên bờ”.
Đến cuối năm 1967, miền Bắc đã bắn rơi 2.680 máy bay hiện đại, bắn chìm, bắn cháy nhiều tàu chiến của Mỹ. Chiến công đó góp phần quyết định vào thắng lợi của mặt trận bảo đảm giao thông, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]
Kết quả sau hai mùa khô, trên toàn miền Nam, quân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 240.000 quân Mĩ và đồng minh, bắn rơi và phá hủy hơn 2.700 máy bay và trực thăng, phá hủy hơn 2.200 xe tăng và xe bọc thép, hơn 3.400 ô tô. Tại miền Bắc, hơn 1.000 máy bay các loại bị bắn rơi, hàng chục tàu chiến Mĩ bị bắn cháy.
Ở hầu khắp các vùng nông thôn, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, quần chúng đã đứng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của Mĩ và quân đội Sài Gòn, phá từng mảnh "ấp chiến lược". Trong hầu khắp các thành thị, giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động khác, học sinh, sinh viên, Phật tử, binh sĩ Sài Gòn... đấu tranh đòi Mĩ rút về nước, đòi tự do dân chủ. Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
Trong khi đó, nước Mỹ lâm vào cuộc khủng hoảng về chính trị và kinh tế, khủng hoảng về chiến lược quân sự và chính sách đối ngoại, không có cách gì khắc phục được. Trong nước, sự phân hoá giữa phái chủ chiến và chủ hoà, giữa các tầng lớp xã hội Mỹ với Chính phủ liên bang... ngày càng trở nên gay gắt. Đó thực sự là một áp lực chính trị ngày càng tăng đối với chính quyền và đối với cá nhân Tổng thống Mỹ Johnson.
Trên thế giới, việc gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam khiến Mỹ ngày càng bị cô lập, ngày càng có nhiều tiếng nói ủng hộ nhân dân Việt Nam. Ngày 15-11-1966, Toà án quốc tế Béctơrăng Rútxen xét xử "tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam" được thành lập theo sáng kiến của nhà bác học người Anh Béctơrăng Rútxen. Toà án họp chính thức lần thứ nhất từ ngày 02 đến ngày 13-5-1966 tại Xtốckhôm (Thuỵ Điển) với hơn 300 đại biểu đến từ các nước và đông đảo phóng viên báo chí, vô tuyến truyền hình quốc tế, và kỳ họp thứ hai từ ngày 20-11 đến ngày 1-12-1967 tại Côpenhagen (Đan Mạch). Với những bằng chứng thực tế và đầy sức thuyết phục, Toà án Béctơrăng Rútxen kết luận: "Chính phủ Mỹ đã phạm tội ác xâm lược chống nước Việt Nam, các Chính phủ Ôxtrâylia, Niu Dilân, Nam Triều Tiên là những nước đồng lõa đã phạm những tội ác man rợ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế." Kết luận của Toà án Béctơrăng Rútxen có ý nghĩa về chính trị to lớn, có ảnh hưởng rộng rãi trong dư luận thế giới, nhất là dư luận ở nước Mỹ và các nước phương Tây.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert McNamara trước đây đã từng ủng hộ chính sách của Tổng thống L. Giônxơn đối với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì nay cũng tỏ ra chán nản và nghi ngờ kết quả của chính sách leo thang của Mỹ ở Việt Nam. Tình hình miền Nam lúc đó như Mắc Namara đánh giá là: “một bức tranh ảm đạm, đau đớn đến tột cùng. Nhưng khi đó, tôi không thấy cách gì tốt hơn”[19] Theo đó, “Các chính sách và chương trình của Mỹ ở Đông Dương đã phát triển theo một hướng mà chúng ta (Mỹ) đã không lường trước được... và sự thiệt hại về người, chính trị, xã hội và kinh tế là không thể tưởng tượng được. Chúng ta (Mỹ) đã thất bại” [20]
Trung tướng Bernard Trainor, từng phục vụ ở Việt Nam hai lần, của cả hai loại hình Chiến tranh đặc biệt và Chiến tranh cục bộ, so sánh cuộc chiến ở Việt Nam với cuộc chiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ: “Nhiều người nói rằng chúng ta phải ném bom để đưa miền Bắc về lại thời kỳ đồ đá. Ở mức độ nhất định, chúng ta đã đạt được hiệu quả này, nhưng họ vẫn tiếp tục chiến đấu. Có ném bom nữa cũng không ăn thua gì. Tôi thấy cuộc kháng chiến của Việt Nam có nét tương đồng với cuộc cách mạng của Mỹ. Cũng như các nhà cách mạng Mỹ thời đó, người Việt quyết chiến đến cùng. Những người dân Mỹ hồi đó đã đi tới một quyết định rằng độc lập là thiết yếu. Họ đặt cược tính mạng và của cải của mình vào sự nghiệp giành độc lập... Hy vọng ban đầu là thu phục trái tim khối óc của người dân, nhưng hy vọng này đã bị tan tành bởi thất bại của chính quyền Sài Gòn trong việc giành tín nhiệm của dân và chiến lược Tìm và diệt của Westmoreland. Về cơ bản đây là chiến lược tiêu hao sinh lực... Chỉ việc chất đống quân lực và vũ khí, rồi bóp vụn quân địch. Đây cũng là cách mà Westmoreland xúc tiến ở Việt Nam. Một cách làm võ biền. Có thể nói, Quân Giải phóng đã xoay triết lý chiến tranh tiêu hao chống lại chính Westmoreland. Chiến lược của người Việt là nhằm làm sao xói mòn sinh lực của quân Mỹ, cho tới khi công luận Mỹ xoay chuyển, chống lại chiến tranh. Chiến lược này đã thành công…”.[21]
Năm 1968, quân Giải phóng tung ra đợt tấn công quy mô nhất từ đầu chiến tranh - cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Những kết quả của chiến dịch này đã đặt dấu chấm hết cho Chiến tranh cục bộ. Hoa kỳ phải từ bỏ tham vọng giành chiến thắng và tìm cách rút khỏi chiến tranh bằng một chiến lược mới - Việt Nam hóa chiến tranh
http://www.uminhcoc.com/forums/showthread.php?t=101100
No comments:
Post a Comment