LAO TÙ và VƯỢT NGỤC Mũ Xanh Trần Văn Khỏe
Khóa 4/71 Sĩ Quan Trừ Bị-Thủ Đức ra trường vào lúc mùa Hè đỏ lửa năm 1972, sau 10 ngày huấn luyện leo lưới, đổ bộ. TĐ5/TQLC được phân phối 10 sĩ quan. Nhóm tôi có bốn người về trinh diện ĐĐ3/TĐ5/TQLC, lúc bấy giờ ĐĐT là Tr/Úy Trần Thanh Tùng tại ngã ba Long Hưng - tên địa danh của một ngã rẽ đi vào cổ thành Quảng Trị -. Những tháng ngày của đạn pháo mưa bom, và cũng là nơi hai bạn tôi là Ch/Úy Tô Ngọc Khanh và Ch/Úy Nguyễn Văn Bình đã hy sinh hai tuần sau khi nhận đơn vị. Lòng tôi không sao tránh khỏi sự bùi ngùi, xúc động mỗi khi nhớ đến hai bạn thân của mình đã không may bị gục ngã, và hy sinh để bảo vệ phần đất tự do, cho đất nước, cho quê hương miền Nam Việt Nam. Giờ đây sau 40 năm nhìn lại chỉ còn là những kỷ niệm, là quá khứ của một thời chinh chiến. Sau ngày quốc hận 30-4-1975. Hầu như tất cả Sĩ Quan QLVNCH đều bị lừa bịp bằng danh từ “cải tạo tư tưởng” trong thời gian nhất định. Thế rồi, như một đàn trẻ mới lớn, từng đoàn người lũ lượt kéo nhau ra trình diện để được vào trại cải tạo tập trung. Trong số đó có chúng tôi, Mai Xuân Cương, Diệp Phi Hùng và Trần Văn Khỏe cũng kéo nhau vào tù một lượt. Sau gần ba năm năm vất vả trong cảnh lao tù cộng sản, ngày ra tù gần như tuyệt vọng... ooOoo Đầu năm 1978 nhóm chúng tôi gồm sáu ngưới có ý định trốn trại trại tù, kế hoạch qua khu trại tù Bùi Gia Mập rồi xuyên ranh giới Cambodia, vượt sông Mekong qua vùng Bát Tam Bang đến Thái Lan bằng đường bộ. Đây là việc làm rất quan trọng đến sự sống còn, nên trong nhóm không ai khác ngoài bốn chữ TQLC, trong đó có ba trung đội trưởng của ĐĐ3/TĐ5 là Th/Úy Trần Văn Khỏe, Th/Úy Diệp Phi Hùng, Th/Úy Mai Xuân Cương. Ba thằng bạn rất thân với nhau cho dù bất cứ hoàn cảnh nào. Khoảng cuối mùa thu 1978, một người bạn sau cùng trong số bốn đứa ra trường đã bị gục ngã trong hoàn cảnh khốn cùng của trại tù Bùi Gia Phúc, tỉnh Phước Long, nằm cách ranh giới Cambodia độ trên 10 cây số, đó là Mai Xuân Cương. Trại được bao quanh bởi ba hàng rào xây dựng bằng tre "lồ-ô" và kẽm gai của QLVNCH để lại, mỗi hàng cách nhau khoảng 5 tới 10 thước, do chính những tù nhân Công Binh QLVNCH thực hiện, “phe ta làm hàng rào kiên cố nhốt phe mình”. Bên ngoài hàng rào thứ ba là những vọng gác cao khoảng 10 mét và có vệ binh canh gác hàng đêm. Nguyên nhân đưa đến cái chết Th/Úy Mai Xuân Cương. Tổ chúng tôi âm thầm chống đối, hầu hết trong tổ toàn dân tác chiến, nhiều lần chúng tôi bị kiểm điểm là tổ có “khả năng” lao động sản xuất thấp nhất trong đội, nên cả đội bốn tổ phải chịu hình phạt chung, ngồi mổ xẻ hằng đêm, nhưng rồi vì sự công bình toàn đội, nên cả tổ chúng tôi bắt đầu làm việc trở lại.
Một hôm, không nhớ rõ ngày tháng, vào năm 1976 trại tù Trảng Lớn L3/T4, theo chỉ tiêu 5 kg rau mỗi người trong tháng, nên mọi người cố gắng đắp thêm vàì luống rau muống trên mặt đường trải đá. Tôi Hùng, Cương, Sơn, Lâm… cả tổ đều chia nhau đi tìm đất mềm để làm thêm luống rau. Tôi lấy đất gần bìa hàng rào; Hùng, Sơn, Cương thay phiên xuống hầm ếch lấy đất cho lẹ. Gọi hầm ếch, vì như cái hang không chân khổng lồ, nhìn rất nguy hiểm, đất có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Vì mọi người ai cũng muốn lấy đất mới, nên đã tạo thành cái hố lớn không chân. Tôi cũng xuống hố lấy vài ký đất và linh cảm cho tôi biết có điều gì không ổn nên tôi leo lên đi tìm để cào một nơi khác. Hôm đó, Cương đào đất, Sơn kéo, Hùng đổ vào những luống rau. Được khoảng độ 10 ký thì tôi nghe tiếng rú lên của Sơn:
Lúc bấy giờ tôi nhìn thây hai mắt Cương trợn trắng, sùi bọt mép ra, thân hình cong như con tôm, chúng tôi phụ nhau keó thẳng thân người ra, khi phát hiện cột xương sống bị gãy, bấy giờ mỗi thằng một tay, khiêng bạn chạy thẳng vào bịnh xá của tiểu đoàn cách đó độ vài trăm thước.
Trời đã sụp tối, bệnh xá chỉ có vài tên vệ binh được bổ làm y tá, thấy chúng tôi sôn xao tên vệ binh hỏi: Tôi không để ý gì đến khung cảnh chung quanh mà chỉ chú tâm vào Cương thì giật mình nghe bên kia nhà có tiếng hét la đau đớn. Quay sang nhìn thì thấy xe Honda chiếu ngọn đèn pha thẳng vào trong cái mùng xanh màu nhà binh. Bấy giờ tôi trố mắt nhìn kỹ xem việc gì, thì ra một tên bộ đội y tá cầm cây cưa sắt đang cưa cáí chân của một bạn tù, đi lao động cuốc trúng một đầu đạn M79 khi sáng. Cả đám nhìn nhau lắc đầu, lúc đó tên bộ đội chĩa súng vào chúng tôi quát lớn bắt chúng tôi phải trở về phòng ngay! Biết làm sao bây giờ, đành lủi thủi ra về, bỏ lại bạn mình nằm quằn quại ngoài hiên không một liều thuốc trị. Vài tuần sau khi Cương trở về, đi đứng như thằng Gù Nhà Thơ Đức Bà và kể lại: - Đ. m, tụi nó đâu có thuốc gì mà chích, mà cho… Biết cái đéo gì mà trị. Mỗi khi tao bị lên cơn sốt thì thuốc “ký ninh” và khi đau quá kêu la thì tụi nó cho liều thuốc “KHẮC PHỤC”: ráng chịu “đau rồi sẽ qua”. Vừa kể, Cương vừa vấn điếu thuốc rê, nói thuốc rê cho sang chứ thực sự toàn là râu bắp nhúng nước thuốc lào, đem sấy khô hút cho đỡ thèm. Cương hỏi tôi: - Khỏe, mày còn nhớ mấy sĩ quan Võ Bị khóa 29 hay 30 gì đó không? Họ tốt nghiệp trên đường di tản, về TQLC rồi đi theo thực tập với mày không? Thằng Hải, cái đêm mà tụi mày khiêng tao lên bệnh xá, thì nó đang bị cưa cái chân trong mùng. Nghe tụi mình gọi tên nhau nó nhớ tên mày và hỏi tao mới biết ra phe ta, cùng là Mũ Xanh. Tội nghiệp nó bị cụt một chân, đui một con mắt vì cuốc trúng vào đầu trái M79. Sau này, vì Cương bị sốt rét, đi tiểu bị té nứt khớp xương sống, tủy sống chảy ra, đó là nguyên nhân đưa tới cái chết của ngườì đồng đội, đồng tù: Th/Úy Mai Xuân Cương. Nhiều lúc ngồi một mình, suy nghĩ vu vơ, nhớ chuyện này rồi sang chuyện khác. Đôi lúc tôi nghĩ số tôi lận đận nhưng gặp nhiều may mắn. Ngày đó, nếu Cương không chết và ba người bạn vẫn quyết định trốn tù theo dự tính lúc ban đầu thì số phần chúng tôi chưa biết sẽ như thế nào? Có lẽ bỏ thây trong rừng sâu, một nơi nào đó trên đất Campuchia, hay bị chặt đầu vì đám quân Pôn Pót. Sau khi Cương chết, tôi nghĩ đến hướng khác, đổi hướng “tiến về Saigon”. ***** Tôi bí mật viết thư gởi về gia đình làm giây tờ giả. Tội nghiệp má tôi khi nhận được thư, nghe tôi có ý định trốn trại, bà rất lo lắng vô cùng nhưng cũng chìều tôi. Bà nói ra cho em trai tôi biết, thằng em cũng đồng ý, vì đã bốn năm rồi mà vẫn chưa có ngày về. Bà hỏi tiền đâu mua giấy tờ giả trong lúc không có cơm ăn? Thằng em lanh lẹ trả lời: - “Thẻ công nhân của con, gỡ hình ra dán hình ảnh vô, rồi vô hãng chôm giấy phép, chuyện nhỏ. Còn chuyện lớn là ảnh trốn có được an toàn hay không thôi”. Vài ngày sau, nó tìm đâu ra tấm hình thẻ học sinh của tôi dán vào thẻ công nhân của nó, rồi đưa cho má tôi kèm theo tấm giấy phép để trống. Lúc bấy giờ, tình hình thay đổi, chuyển trại giải giao tù về Hàm Tân, Suối Máu, Chí Hòa cho bộ Công An quản lý, tù nhân trốn trại bắt được xử bắn tại chỗ. Mới cách đây một hai tuần, trại kế bên đã xử bắn làm gương một bạn tù trốn trại, treo hàng rào để tới thối mới được chôn. Nhớ lúc còn làm anh nuôi, đem cháo vào nuôi hai bạn trốn tù không may bị bắt lại, trước thời gian ba năm. Bị đánh đập đến nỗi một thằng thì con mắt lòi ra đầy máu, còn một đứa thì gãy cánh be sườn chỉa ra ngoài một khúc. Hai chân bị cùm trên đôi thanh gỗ, thoi thóp trong cái chòi tôn nhỏ xíu. Tiếng nói thều thào của Thời còn văng vẵng bên tai “đợt cháo tới cho xin chút đường”. Thấy bạn nằm thiếp tôi nhận lời sẽ cố gắng, trong khi được lệnh một lon cháo trắng cho cả hai thằng. Quá thương bạn, hôm sau tôi làm liều một chuyến, bỏ thẻ đường dưới đáy lon Guigoz rồi đổ lên đầy lớp cháo. Như đã đoán được việc làm của tôi tên vệ binh chận lại hỏi: - ”Thế, anh đem gì cho chúng nó hôm nay.”
Tôi đáp lại:
Vệ binh: Rồi hắn đi thẳng ra ngoài sân nhà, bẻ nhánh cây khô thọt vào lon Guigoz cháo tôi đang cầm quậy lên, thấy cục đường vàng khè dưới đáy quét văng ra ngoài, rồi lấy khẩu AK 50 quay báng súng định đập vào mặt tôi. Nhưng rồi không hiểu hắn nghĩ sao, bỏ súng xuống. Nếu không chắc giờ đây miệng tôi toàn răng giả. Việc thăm nuôi trở nên khó khăn hơn trước. Thân nhân thăm nuôi bị khám xét rất kỹ lưỡng, đám vệ binh lợi dụng việc này tha hồ khám xét mò dưới… bóp trên, vợ hay em gái tù nhân lên thăm. Má tôi phải can đảm và vất vả lắm mới đem được giấy tờ cho tôi. Tôi hỏi má tôi có bị tụi vệ binh mò không? Bà trả lời tao già nó chê, chỉ mò mấy đứa nhỏ thôi, tụi nhỏ nó la, khóc um trời. Mẹ con nói với nhau qua loa vai câu chuyện, trời đã tối, tôi trở về trại, đổ lon Guigoz mắm ruốc ra. Tôi ứa nước mắt khi nhìn cuộn giấy được bao thật kỹ trong bịch nylon, cũng may là tụi vệ binh không bắt đổ ra khám xét. Phần tôi đã xong, tôi hỏi Niên người bạn “Kình Ngư, Phạm Bá Niên” anh trả lời xong xuôi một ngày cơm vắt. Thế là dự trù sáu người lúc ban đầu thì một chết (Cương), lạnh cẳng ba, chỉ còn hai là tôi và Niên. Kế hoạch vẫn thực hiện, nhưng chưa quyết định ngày giờ xuất phát. Lúc này còn lại tôi và Niên hằng đêm bí mật bàn thảo kế hoạch. Đêm thì thầm cuối cùng là đêm 18-6-1979. Hai thằng nhìn nhau nắm chặt tay trong quyết đình cuối cùng. Có thể, trong đêm mai ngày 19-6-1979 ngày thành lập Quân Lực VNCH cũng là ngày giỗ của hai thằng! Dẫu sao ngày này gia đình chúng tôi cũng dể nhớ! Ngày hôm sau tôi chuẩn bị những đồ cần thiết để rời tuyến xuất phát đúng 9 giờ đêm, sau khi tiếng kẻng vang lên tới giờ đi ngủ. Theo kế hoạch, khi kẻng 9 giờ đêm, tôi dậm chân tại chỗ. Niên sẽ đến bắt tay để rời tuyến xuất phát. Như cảm giác của giây phút đầu mỗi lần trước khi đụng trận trong mùa Hè Đỏ Lửa 1972, tim tôi đập mạnh, người lạnh run, trong khoảng 5, 10 giây. Năm phút hồi họp chờ đợi đã qua, Niên vẫn chưa đến tôi suy nghĩ có lẽ hắn lại đổi ý rồi. Tôi tiếp tục xem đồng hồ, khi tiếng ồn ào trong láng bắt đầu lắng dịu thì Kình Ngư xuất hiện kéo giò Hắc Long. Tôi vội kéo tấm mền giầy cộm làm bằng bao cát phủ lên chiếc gối dài, rồi chui ra khỏi láng, thấy Niên đang núp chờ tôi ngoài cửa chòi. Giây phút định mệnh đã đến, giây phút hồi hộp chờ đợi đã qua, lúc nầy tim tôi gần như đều hòa trở lại để đương đầu với giây phút thập tử nhất sanh. Hai thằng tôi lần lượt đi lòn qua từng láng, trong lúc tiếng xì xào sắp bắt đầu im lặng, cũng là lúc cán bộ cai tù đi kiểm soát. Qua khỏi láng cuối cùng một khoảng độ vài mươi thước, thì đụng lớp hàng rào thứ nhất, dễ dàng vạch kẽ hở của hàng tre "lồ ô" chui qua. Kế tới là hàng thứ hai hơi khó, những cánh "lô ô" còn chưa siêu vẹo, cuối cùng cũng cố lòn lách chui qua được. Lúc này ngoài trời tối đen như mực, cả doanh trại dường như hoàn toàn yên lặng khi tôi quay đầu nhìn lại để lắng nghe. Lớp hàng rào thứ ba là vấn đề trở ngại lớn, Niên ra dấu hiệu hỏi ý tôi nên đi hướng nào? Theo dự trù thì hướng phía trước mặt là đường xe chạy thì dễ dàng hơn, nhưng tôi quyết định đổi hướng, chỉ thẳng vào vọng gác, “nhứt chín nhì bù”. Theo kinh nghiệm chiến trường, nơi nào khó thì chỗ đó tương đối an toàn, giờ đó mới quá 9 giờ đêm, vệ binh chắc chưa ra vọng gác. Cả hai đồng ý bò thẳng về hướng vọng gác gần tới chân hàng rào, dừng lại nghe ngóng, quan sát. Chúng tôi nhìn thẳng lên vọng gác đâu chừng năm phút xem có động tĩnh gì trên đó không. Quả như điều tôi đoán, chưa thấy tên vệ binh nào ra gác giờ này. Tới chân hàng rào thứ ba, cao độ chừng ba mét bên trên là ba lớp kẽm gai "công xẹc ti na" chồng lên như hình tam giác, dưới chân thì dầy đặc kẽm gai, không cách nào chui qua lọt được. Vừa suy nghĩ tìm cách đối phó, vừa lầm thầm chửi thề... Quân ta làm hàng rào nhốt quân bạn kỹ quá, giá ngày xưa… rào kỹ như vầy thì đỡ biết mấy. Niên và tôi mỗi thằng cố tìm cách bám viu để leo lên đỉnh hàng rào, tránh động tĩnh tối đa, không thằng nào lên được. Cuối cùng, tôi quyết định ngồi xuống để đưa Niên lên bằng hai vai của mình, khi bám được vòng kẽm gai trên cùng, Niên từ từ tìm kẽ hở chui qua, đeo lủng lẳng trên ba vòng kẽm gai, độ vài phút sau tôi thấy Niên xuống tới chân bên kia hàng rào. Qua được một thằng rồi, còn tôi làm sao tôi trèo qua đây? Thì bên kia Niên cố gắng banh kẽm gai chui vào đưa hai cánh tay chịu trên kẽm như một nấc thang cho tôi bước lên. Không cách nào khác tôi đành đạp lên tay Niên cố gắng hết sức mình để đu lên vòng kẽm, cũng may tôi nắm được vòng đầu rồi đu lên. Lúc này tôi nhớ đến leo lưới trong quân trường lần đầu tiên có cơ hội thực tập và cũng là lần cuối của đời tôi, đu tòn teng như nhện. Khi lòn qua gần hết kẽm tôi vội vàng buông tay nhảy xuống, vòng ngoài cho lẹ. Nhưng lưng quần tôi còn vướng móc kẽm gai kéo tôi ngược lại lơ lửng giữa chừng. Tiếng "lồ-ô" đổ gãy kêu răng-rắc. Niên vội vàng chạy tới đỡ tôi bước xuống. Thật may mắn cho hai thằng tôi, giả sử có vệ binh canh gác đêm đó thì hai thằng tôi đã ra người thiên cổ. Ngồi xuống lấy lại bình tĩnh, định lại vị trí rồi bắt đầu tìm lối ra. Gai mắc cở chằng chịt mọc trộn lẩn trong đám tranh khô, mỗi bước đi chúng tôi tạo nên từng tiếng kêu xào xạc. Bọn vê binh thường hay bắn “la fan” vào nơi có tiếng động ban đêm may ra chết được heo rừng. Tôi nhớ có lần tôi làm “anh nuôi” cùng một thằng bạn qua khu vê binh ăn trộm mướp, dưa leo vì quen đường đi lối về nên an toàn trở lại. Nửa giờ sau, tiếng AK nổ vang rền, tiếng vệ binh la inh ỏi heo rừng, heo rừng lọt vào giếng cạn. Tên vệ binh chĩa đèn pin xuống giếng định bắn thì nghe tiếng la đừng bắn tôi… tôi không phải heo rừng. Thì ra là thằng tù đói như tôi cũng đi ăn trộm nhưng không thuộc đường nên bị băt và đánh bầm dập cả đêm, nhưng thoát chết. Kinh nghiệm đó, Niên và tôi lần mò từng bước một, có lúc phải bò thật chậm hay lom khom bước đi từng chặng một. Mất khoảng gần hai tiếng đồng hồ để vượt khỏi đám tranh dài chừng 200 m. Ra tới mặt đường xe chạy, theo kế hoạch dự trù là đi qua đường tiến thẳng vào rừng độ chừng 20 m, quẹo trái. Cập dọc theo lề đường đi độ chừng hơn cây số, qua khỏi bộ chỉ huy Trung Đoàn, mới ra đường lộ. Lúc này chúng tôi làm theo kế hoach vạch sẵn, qua đường lần theo con đường nhỏ mà đi. Hai thằng yên lặng lần mò đi được hơn nửa giờ, tôi có linh cảm dường như bị lạc, nếu đúng đường thì có lẽ đã qua khỏi vọng gác Trung Đoàn, nhưng con đường mòn này dẫn xuống chân đồi, ẩm ướt và sương mù. Tôi bảo Niên tụi mình bị lạc rồi, bẻ góc 90 độ, đi lên. Hai thằng đồng ý chuyển hương đi, trời tối đen, bàn tay đưa ra không thấy ngón, đi được khoảng 20 phút, tôi thấy đàng xa dường như có ánh đèn dầu. Kéo Niên ngồi xuống định lại hướng, thì ra ngọn đèn dầu thấp sáng loe lóe trong căn nhà thăm nuôi, bên cạnh vọng gác của Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn. Nếu không nhờ ngọn đèn dầu của căn nhà thăm nuôi đêm đó, thì hai thằng tôi đi vào ngay họng súng của vệ binh trước cửa cổng Trung Đoàn. Định được điểm đứng trọng yếu, không dám tiến sâu vào rừng nữa, chỉ lùi vào một chút rồi tiép tục hướng Ngã Ba Đường 10 mà đi. Được một đoạn hơi xa Trung Đoàn, rồi lần mò trở ra đường xe chạy. Tới được “Ngã Ba Đường 10” khoảng 12 giờ đêm. Đã ba giờ đồng hồ mà đi chỉ được hơn ba cây số, chúng tôi bằng mọi cách phải đi tới cầu Sông Bé đúng 6 giờ sáng. Khi vệ binh gác cầu rời vọng gác vào tập thể dục, lợi dụng cơ hội này để qua cầu. Đoạn đường này độ vài mươi cây số. Niên và tôi bắt đâu bám đuôi nhau, đi như chạy khoảng 10 km, đứng lại nghỉ mệt, Niên đề nghị: - Nếu hai thằng bám đuôi nhau thế nầy thì nguy hiểm, bây giờ một thằng đi trước, thằng sau độ 10 mét, nếu có bị bắn hy vọng có thằng chạy được vì ban đêm bọn nó không biết mình đi mấy người. Chúng tôi “oẳn tù tì”, ai thua đi trước và Niên đã thua, Niên bảo nếu có gì nghi ngờ thì Niên sẽ đưa tay ra sau xoay tròn. Mật hiệu đã xong, Niên vội vàng lên đi trước. Lầm lũi đi trong bóng đêm, được thêm vài giờ nữa, ra tới quán “BA CÔ” lúc này tôi độ chừng 4 giờ sáng, trời bắt đầu bớt tối dần, khoảng cách chúng tôi càng xa, chỉ bám nhau theo mật hiệu mà thôi. Đi thêm đoạn nữa, thì bắt đầu đoạn dốc đồi thật cao, tới đây chúng tôi đã biết được khi đổ dốc là sẽ tới gần cầu “Sông Bé”. Đang miên man nghĩ đến những đều may mắn, trời thương không mưa, không một toán vệ binh gác đường thì Niên đã lên tới đỉnh đồi cao. Tôi còn chưa được nửa đồi, bỗng thấy có dấu hiệu khác thường, tay Niên đưa ra sau lưng xoay tròn. Tôi giật mình chạy nhanh vào lề đồi núp vào lùm cây, quan sát. Dường như có tiếng đối thoại nhưng không nghe rõ vì một đoạn quá xa, hơn nữa trời lúc này vẫn hơi tối. Chừng một lúc, tôi thấy Niên đi trở lại bình thường rồi biến mất đi khi xuống bên kia dốc đồi. Tôi đoán chắc là có chướng ngại vật, nhưng không biết là cái gì. Phải đành chui ra bước lên. Đã lên lưng cọp rồi phải cố điều khiển nó mà thôi, tôi lấy lại bình tỉnh, bước đi lên đồi. Khi tới đỉnh thì bỗng dưng có tiếng quát to từ phiá bên kia đường: - “Anh kia làm gì, đi đâu sớm thế?” Một giọng nói gần như quen thuộc hàng ngày của những vệ binh, hay cán bộ cai tù. Tôi giật mình quay sang, thấy tên bộ đội với khẩu AK 50 chỉa thẳng vào người tôi. Lúc này, không hiểu sao tôi bình tĩnh như chưa bao giờ hết. Tôi trả lời như người một công nhân bình thường chẳng sợ sệt gì: - “Trời đất ơi, anh làm tôi hết hồn. Tôi là công nhân ở thành phố HCM lên thăm ông anh trong trại cải tạo, vì không nghỉ phép được lâu nên phải đi về sớm ra Phước Bình đón chuyến xe đầu về thành phố". Tên bộ đội gằn giọng trả lời: - “Thế à! Vậy anh đi cẩn thận xuống dốc đồi, kẻo bá vào chiếc xe tôi lật nằm dưới đấy nhé, đi đi...”
Cũng may tên này không phải là vệ binh gác tù, tôi gần như thoát nạn, trả lời: Tôi nhớ lại, cũng tại chỗ dốc này cách đây hai năm, khi được chuyển tới khu vực này. Chiếc xe chở đám tù chúng tôi cũng đã nhiều lần muốn lật ngang vì ngọn dốc quá cao. Thêm vào là đường mưa trơn trợt. Thật hú hồn, nếu một trong hai thằng trả lời không suông sẻ, giờ này có lẽ không còn có dịp viết lại chuyến trốn trại tù. Xuống tới chân đồi, trời gần sáng hẳn, đã thấy Niên chờ sẵn bên cạnh bìa rừng. Rồi hai thằng mò xuống con suối nhỏ gần đó để rửa sạch những dấu vết bám đày xình, đất đỏ trên quần áo. Tôi thay chiếc áo tay ngắn Kaki vàng cũ kỹ, chiếc áo này tôi lượm nó trong lúc làm vệ sinh dọn dẹp khi vừa chuyển tới trại Trảng Lớn cách đây bốn năm, mặc rất vừa vặn nên tôi giữ kỹ nó như một món đồ quý giá. Rửa tay chân sạch sẽ, chúng tôi trở ra đường, quan sát cái chòi gác của vệ binh bên này cầu Sông Bé. Hai thằng nhìn thật kỹ, không thấy tên vê binh nào còn gác, vì trời đã sáng. Đợi Niên đi một đoạn hơi xa độ chừng 200 mét, tôi bắt đầu nối gót theo sau. Khi tôi đến ngay vọng gác, thì lúc đó Niên đã nửa đoạn cầu. Nhìn xuống đáy cầu sâu thâm thẩm, không cách nào qua được nếu không liều lĩnh bước đi trên cầu. Lúc trời sáng, tôi càng sợ hơn, sợ khi phát giác chúng tôi trốn trại. Trung Đoàn cho vệ binh đuổi theo bằng xe Jeep để chận ngoài bến xe Phước Bình, hoặc thấy chúng tôi trên đường là bị bắt ngay. Tôi muốn chạy thật nhanh cho qua khỏi đoạn cầu dài mấy trăm thước này, cũng ước gì nếu có phép thì tôi sẽ biến ngay cho khỏi chỗ này, vừa đi vừa lầm thầm khấn nguyện. Niên đã qua tới phía đầu bên kia, trong khi tôi mới nửa đoạn cầu, bước nhanh hơn nhưng không để lộ nỗi sợ hãi của mình, cũng may vì còn quá sớm không một chiếc xe nào qua lại lúc này. Qua xong cây cầu Sông Bé, lại đối diện với cái dốc cao, con dốc cong quẹo trước khi đến bến xe Phước Bình. Niên chui vào bìa rừng bên phải đợi. Tôi lên tới ngồi nghỉ một lát cho tỉnh, vì quá mệt. Không dám nghỉ lâu, chừng năm ba phút rồi tiếp tục ra đường bước tiếp. Chừng một đoạn không xa, dường như có tiếng xe từ phía cầu chạy lên tôi ra hiệu chạy nhanh vào góc mô bên trái có vài nhánh cây đủ che thân cho hai thằng. Quả thật là may cho hai thằng, nếu xe này chạy trước nửa giờ, thi chúng tôi không biết phải đối phó ra sao? Trên xe có ba người, hai cán bộ và tài xế, xe chạy lên dốc rồi thẳng hướng Phước Bình. Bọn tôi phóng ra đi tiếp, lên khỏi dốc núi thì con đường trở nên rộng hơn. Đi hướng về bến xe Phước Bình, mắt nhắm, bụng đói, miệng khác nước, nhưng chân vẫn bước đi như chạy. Tới ngã ba đường đi Bù Đăng, Bù Đốp, cách bến xe Phước Bình vài trăm mét. Nhìn thấy một đám bò vàng (danh từ của đám tù gọi bộ đội và CA) đứng đầy bến xe. Kế hoạch A không thể thực hiện được thì kế hoạch B thi hành, đoạn đường dài nguy hiểm hơn, qua Bù Đăng, Bù Đốp về Lộc Ninh, xuống Bình Long, rồi Bến Cát, Bình Dương, xong tới Saigon”. Quá khát nước, mệt lả người, chân không ngừng bước, may thay có vài người Thượng vác gùi đi ngược đường, thấy vài khúc mía lau bên trong. Tôi móc túi ra chừng 5, 10$ gì đó rồi ra dấu muốn mua. Như thấy tôi mệt lả, một trong số người Thượng đứng lại đưa hai khúc mia, lấy tiền rồi bỏ đi. Như được cứu tinh, vừa đi hai thằng cắn, xước hai khúc mía ngon lành gần như tỉnh hẳn lại, đường đi Bù Đốp trên 10 Km. Lang thang trên đường độ vài cây số, có tiếng xe lam từ sau chạy tới, quá mệt, tôi đứng lại đón xe, xin đi Bù Đốp, thấy trên xe lam đã có bốn, năm người. Xe dừng lại, Niên và tôi nhảy lên. Ngồi chưa nóng đít, một toán du kích chận xe lại trên đường, xét giấy tờ. Hai thằng nhìn nhau tái mặt, nhưng cũng phải bình tĩnh. Tên du kích bắt đầu hỏi giấy tờ, Tôi ngồi ngoài bên trái, Niên bên phải. Du Kích hỏi tôi: - “Anh này cho tôi xem giấy tờ tùy thân”. Tôi lấy trong túi ra một thẻ công nhân của em tôi làm giả và một giấy phép được nghỉ ba ngày. Tên du kích xem thẻ công nhân, rồi qua tới tờ giấy phép. Tôi thấy hình như tên này không biết chữ, cứ lật ngược, rồi lật xuôi, lật qua lật lại, rồi hắn nói: - “Thế giấy phép của anh hết hạn rồi, sao giờ này còn đây?” Tôi giật mình, thoáng nghĩ không lẽ mình ghi lộn ngày? Mới vừa điền vào khoảng trống chiều hôm qua trước khi vượt trại. Tôi bình tĩnh trả lời: - “Đâu anh coi kỹ lại xem, giấy phép tới hết ngày mai mà”. Du kích lật giấy qua lại vài lần nữa rồi gật đầu trả giấy lại cho tôi, rồi lần lượt hỏi giấy tới Niên. Khi nghe Niên nói giọng Huế, tôi nghe tên du kích hỏi Niên: - “Anh từ Huế vào à? Sao giấy đi đường là của quận Phú Nhuận?” Niên trả lời, tôi không nhớ rõ như thế nào, cuối cùng hai thằng thoát nạn một lần nữa, tới được Bù Đốp. Vào trong chợ Bù Đốp, thấy gánh mì mừng quá ngồi xuống gọi hai tô mì lớn, định ăn mỗi thằng một tô cho no nê rồi tính. Đang ngồi chờ mì, tôi hỏi bà bán mì: - “Bác! Bác! Có xe nào từ đây tới chiều về Lộc Ninh không?" Bả chỉ vào chiêc xe như chiếc “Dodge”, người bu như kiến trên đó và nói: - “Mỗi ngày chỉ có một chuyến thôi. Nếu không đi được phải chờ tới ngày mai.” Hai thằng giật mình, vội vàng trả tiền hai tô mì chưa ăn, chạy thẳng ra xe, bon chen, cố bám lấy sườn xe cho được. Giành giựt với nhau một hồi, tôi bám được một chân đứng trên xe, một tay nắm vào cái thanh sắt trên mui xe, còn Niên hắn hay thiệt, chen lấn ngồi trên nóc mui xe. Hai thằng nhìn nhau như yên tâm vì không đứa nào lọt lại nơi này đêm nay. Xe bắt đầu chạy khoảng hơn 12 giờ trưa. Tới Lộc Ninh hơn một giờ. Không trạm kiểm soát nào. Về tới Lộc Ninh mua tạm bánh mì ăn lót bụng. Đi chung quá nguy hiểm, quyết định chia tay từ đây, tại Lộc Ninh tôi hỏi thăm dò, thì biết được từ Lộc Ninh về Bình Long có một trạm kiểm soát “Bò Vàng”. Từ Bình Long về Bình Dương có trạm kiểm soát lớn tại Bến Cát. Chia tay nhau mỗi thằng một ngả, hồn ai nấy giữ. Lang thang qua lại bến xe đò mấy lần thăm hỏi, muốn mua vé xe đò lúc này phải có giấy đi đường, tôi chỉ có giấy phép, không giấy đi đường, đành đi xe chuyền từng chặng. Thế là tiếp tục lội bộ ra đường xe rồi tìm cách quá giang. Vài chiếc xe hàng chạy qua tôi đưa tay xin quá giang, cũng may có một chiếc xe ngừng lại. Tôi thấy trên đó 5, 7 tên bộ đội gì đó. Lúc đó không cách nào khác tôi chạy đến trèo lên xe. Mới biết ra là đám bộ đội trẻ rủ nhau trốn đơn vị về Bình Long chơi, không khác gì mình ngày xưa, lúc ngoài chiến trường Quảng Trị nhảy dù đi Huế. Tôi bắt đầu trò chuyên làm quen, có đôi lúc hỏi dò trạm kiểm soát, nhưng không để lộ vẻ sợ hãi vì tôi là công nhân mà. Tôi làm bộ hỏi tên bộ đội: - “Mấy anh qua trạm kiểm soát có phải trình giấy phép không?” Vài tên trong đám bộ đội nói: - “ĐM... sợ đếch gì bọn Công An áo vàng này”.
Tôi biết được điểm này có thể dùng được lúc này. Gần tới Bình Long, đằng trước tất cả xuống xe từng người qua trạm kiểm soát trình giấy tờ. Xe hàng chở đám bộ đội và tôi cũng dừng lại, xuống xe đi bộ qua để trình giấy. Thấy toàn Công An, không có kiểm soát quân sự, cũng như trước đây Cảnh Sát mà không có Quân Cảnh làm sao lính sợ. Nhanh trí tôi vội vàng kéo chiếc áo kaki xanh cất trong bị khoác vào, cộng thêm cái nón bo màu xanh giống như đám bộ đội, rồi chui vào cùng bước chung với đám bộ đội trẻ. Đi tới trạm, bọn bộ đội hiên ngang không vào lối kiểm soát, mà lại dòm mấy tên Công An cười, cười như thách thức bọn tao đi chơi đó làm gì nhau. Tôi cũng làm y chang như đám bộ đội không trình giấy tờ, cũng cười mà đi. Qua xong trạm này, thật hú hồn như có ơn phước, nhờ gặp phải đám bộ đội nghĩa vụ trẻ này. Về tới Binh Long độ ba giờ chiều. Tôi xuống xe, ghé vào xe nước mía bên lề. Thấy ly nước mía lạnh, vì quá khát nước tôi nốc vào quá nhanh, toàn thân xây xẩm, mắt tối đen không đứng vững, tôi té quỵ trên đường. Người bán nước chạy ra đỡ tôi đứng dậy và hỏi: - “Quá 3 giờ thì làm gì có xe về Bình Dương, may ra cậu ra ngã ba Bình Long đón xe chở hàng”. Bằng mọi giá phải rời khỏi khu vực này ngay, vì hơn 4 năm cách ly thế giới bên ngoài thấy gì cũng hoài nghi và lo sợ. Tiếp tục cuốc bộ ra ngã ba Bình Long. Đón xe hàng với nỗi buồn tuyệt vọng, tôi nghĩ hôm nay nếu không đón được xe về Bình Dương chắc là phải ngủ lại ngoài rừng. Trong túi còn 30 đồng, may ra đủ để trang trải tiền xe tới Saigon. Đang lang thang trong nỗi phập phòng lo sợ, thấy chiếc xe hàng lù lù từ phía xa, tôi vội vàng đưa tay ra đón. Xe từ từ ngừng lại, tôi vội vàng ngỏ lời xin trả tiền quá giang. Thấy trên cabin chỉ có hai người, cha làm tài xế, thằng con độ khoảng 13 theo phụ. Thằng con hỏi tôi, anh đi đâu? Tôi đáp TP HCM. Thằng nhỏ nói “không được, tôi chở anh tới Binh Dương thôi, 15 đồng". Tôi cũng đồng ý, khi tới Binh Dương rồi tính tiếp. Trả tiền xong, nhảy lên phía sau thùng xe, thấy một người đã ngồi trên đó, tuổi chạc ngang tôi, gật đầu chào rồi nhìn nhau yên lặng. Thấy một đống củi khô nằm chồng lên những bành cao su thật lớn. Xe chạy được một đoan khá dài. Thấy thằng con từ cabin chui vào trong thùng xe phía sau. Rồi ì ạch kéo những bành cao su, thấy em nhỏ làm, tôi hiểu ý, kéo phụ những bành cao su lớn, sắp xếp củi lại bỏ dưới đáy, xong phủ lại lớp cao su. Xong rồi em mở lời: - “Xe này là xe hàng quốc doanh cao su không được chở bất cứ gì khác. Ba em lén mua một số củi lậu về bán kiếm thêm. Dưới Bến Cát có trạm kiểm soát lớn phải tim cách giấu đi. Em sẽ nói ba em chở anh về thành phố mà không lấy tiên thêm”. Nói xong, thằng nhỏ leo trở về phía trước, tôi thì mừng rỡ. Nhưng khi nghe tới trạm kiểm soát lớn tôi như tái mặt, cũng phải bình tỉnh và phó thác cho định mệnh. Xe chạy thêm hơn nửa giờ, bỗng nhiên chậm bớt tốc độ, tôi quay đầu nhìn ra phía trước thấy hơn nửa cây số xe đò, xe hàng, nối đuôi chờ qua tram kiểm soát. Xe chở hàng của tôi đang ngồi, khi chạy tới chiếc xe cuối cùng đang nối đuôi chờ đợi, lại không ngừng, mà ra giữa lộ chầm chậm chạy thẳng tới trạm kiểm soát rồi dừng lại. Thằng nhỏ nhanh giò nhảy xuống xe, mời tên công an lên xét. Thì ra đây là xe quốc doanh được quyền ưu tiên không phải chờ đợi như những xe hàng tư nhân. Tên công an trèo lên thùng xe kiểm soát, hắn thấy tôi và người khách lạ trên xe. Hắn nhìn thẳng vào tôi, nhưng không hỏi giấy tờ, phản ứng bình tĩnh, tôi mỉm cười lấy lệ. Thấy những bành cao su ngay hàng thẳng lối, không chút khả nghi, hắn bước xuống rồi gọi thằng nhỏ: - “Mày chở khách lấy tiền phải không?” Thằng nhỏ liền miệng: - “Không, không, thấy người đi bộ, cho có giang về nhà, chứ tiền bạc gì đâu, không tin chú hỏi đi” Công An không tin lời thằng nhỏ nói: - “Tao biết cha con mày chở khách lấy tiền, nhưng tao tha cho lần này đấy nhé, đi đi”. Thằng nhỏ cũng cố cãi lại: - “Đâu có, đâu có”. Rồi nó phóng thẳng lên cabin ra hiệu cho ba nó dọt lẹ. Trên xe tôi thở phào nhẹ nhõm, thế là số tôi quá lớn, bốn lần đều gặp may thoát chết. Tới Binh Dương, người khách kia xuống xe, còn tôi được xe chở thẳng về cầu Bình Triệu. Tới Bình Triệu khoảng độ 7 giờ tối, xe cộ, người đi tấp nập. Như chim được sổ lổng, còn 15 đồng tôi đi bộ tới lui, không dám vào tiệm, sợ không đủ tiền. Thấy gánh cơm bên lề, tôi gọi một dĩa cơm thịt kho, hột vịt thêm vài miếng cải chua, kèm theo ly trà đá. Hơn bốn năm, chưa bao giờ có được bữa ăn ngon như vậy. Ngồi ăn, nhớ tới Niên, không biết bạn mình ra sao? Làm sao qua khỏi những trạm gác lớn này? Chúng tôi mất liên lạc với nhau từ đó...
Ăn xong, rồi đi về đâu? Nhà không dám về, vợ con đã vượt biên tới Úc. Tôi nghĩ tới bà ngoại bên vợ đang ở cầu Gò Dưa, lội bộ tiếp cầu Gò Dưa đoạn đường này là chuyện nhỏ. Liên lạc lén lút với gia đình tôi kể từ đó. Sống lang thang nhà thân nhân, bạn bè mỗi chỗ một, hai tuần; đi sớm, về trễ hàng đêm. Sau vài tháng, quen cách sống bình dân, liên lạc được một số bạn bè cũ, biết được Phan Văn Đuông cũng lì đòn, trốn trại tù như tôi nên tìm nhau để dựa lưng vào nhau. Có tình đồng đội thì dù tiền tuyến hay hậu phương, dù trong lòng địch thì chúng tôi vẫn thấy an tâm hơn.
|
Tuesday, March 11, 2014
LAO TÙ và VƯỢT NGỤC
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment