Đỗ Ngọc Uyển
Wednesday, March 26, 2014
Đỗ Ngọc Uyển
Tuesday, March 25, 2014
Sơ Lược về HẢI QUÂN HOA KỲ
Tác giả: Đỗ Hữu Long
I- Tổng Quát: Hải Quân Hoa Kỳ là một quân chủng của quân lực Mỹ có trách nhiệm thực hiện những cuộc hành quân trên biển. Quân số thường trực của Hải Quân Mỹ gồm 332.000 quân nhân hiện dịch và 124.000 trừ bị. Hải Quân điều hành 282 chiến hạm đang hoạt động và hơn 3.700 phi cơ.
USS McCampbell (DDG 85), left, and the guided-missiledestroyer
USS Curtis Wilbur (DDG 54), right.
Hải Quân Hoa Kỳ bắt nguồn từ Hải Quân Lục Địa (
Hiến pháp Hoa Kỳ trao Quốc Hội thẩm quyền “cung ứng và duy trì Hải Quân”. Quốc Hội thông qua Đạo Luật Hải Quân năm 1794 (Naval Act of 1794) ra lệnh chế tạo và cung cấp thủy thủ cho 6 khu trục hạm và đã thành công trong việc chống hải tặc cướp phá các thương thuyền Mỹ.
Lịch sử Hiệp Chủng Quốc cũng ghi nhận Hải Quân đã giữ một vai trò trong chính sách đối ngoại khi nhắc đến Thiếu Tướng Hải Quân Matthew Perry tiếp xúc với Nhật Bản và ký kết Hiệp Định Kanagawa năm 1854.
Hải Quân Mỹ có khả năng khiêm tốn trong Thế Chiến I, nhưng phát triển mạnh trong Thế Chiến II, nhất là sau cuộc tấn công bất ngờ của quân đội Nhật Bản vào Trân Châu Cảng năm 1941. Tại chiến trường Thái Bình Dương, Hải Quân Mỹ là thành phần chủ chốt của lực lượng đồng minh thành công trong chiến dịch tiến chiếm từng hải đảo. Hải quân Mỹ tham dự nhiều trận đánh vang dội như là: Trận đánh Đảo San Hô, trận đánh Midway, trận đánh trên biển Phi Luật Tân (Battle of the
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Hải Quân Mỹ chịu trách nhiệm sẵn sàng đối phó với những cuộc khủng hoảng và chuẩn bị một trận thế chiến có thể bùng nổ với Liên Xô. Thập niên 1990, tầm vóc của Hải Quân Mỹ lớn nhất thế giới, hơn bảy lần tổng số Hải Quân của các cường quốc khác gộp lại.
Kể từ biến cố 9/11/2001, Hải Quân Mỹ cải tiến để đương đầu với những đe dọa mới bằng cách tân tạo hình thể và trang bị vũ khí các loại chiến hạm như là khu trục hạm loại Zumwalt (Zumwalt class destroyer) và loại tàu chiến ven biển (Littoral Combat Ship) để có đủ khả năng thi hành những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp mà không phải gia tăng số lượng.
Năm 2007, Hải Quân Mỹ tiếp nhận thêm binh chủng Thủy Quân Lục Chiến (US Marine Corp) và Lực Lượng Duyên Phòng (US Coast Guard) tạo ra một chiến lược hải quân mới gọi là Chiến Lược Phối Hợp Hải Lực Thế Kỷ 21 (A Cooperative Strategy for 21st Century Seapower).
Chiến lược nhìn nhận những liên kết kinh tế của hệ thống toàn cầu và sự đổ vỡ của hệ thống nầy vì các khủng hoảng trong khu vực – do thiên nhiên hoặc con người tạo ra – có thể tác động bất lợi đến nền kinh tế và phẩm chất đời sống của Hoa Kỳ. Chiến lược mới nầy hoạch định một lộ đồ cho Hải Quân, Lực Lượng Duyên Phòng, Thủy Quân Lục Chiến kết hợp với nhau và với các đối tác quốc tế để ngăn ngừa những cuộc khủng hoảng này xảy ra hoặc đối phó kịp thời khi cuộc khủng hoảng xuất hiện, nhằm tránh những tác động tiêu cực đối với Hoa Kỳ.
Trong thế kỷ 21, Hải Quân Mỹ vẫn tiếp tục duy trì sự hiện diện đúng tầm mức trên khắp thế giới, triển khai tại một số khu vực như là Đông Á, Địa Trung Hải, Trung Đông. Hải Quân Biển Xanh (Blue Water Navy) - với khả năng phóng ra những lực lượng vào những vùng ven biển, bám vào những khu vực tiền tiêu, đáp ứng kịp thời những khủng hoảng trong khu vực - giữ một vai trò tích cực cho chính sách quốc phòng và ngoại giao của Hiệp Chủng Quốc. Hải Quân Mỹ có số trọng tấn nặng nhất thế giới, kinh phí 127.3 tỉ đô la của tài khóa 2007. Hải Quân Mỹ cũng sở hữu những hàng không mẫu hạm lớn nhất, với 11 hàng không mẫu hạm đang xử dụng và một hàng không mẫu hạm đang chế tạo (2009).
Hải Quân được quản trị bởi Bộ Hải Quân mà Bộ Trưởng là dân sự. Bộ Hải Quân là phân bộ của Bộ Quốc Phòng. Chỉ Huy Trưởng Hành Quân Hải Lực (Chief of Naval Operation) là sĩ quan hải quân cao cấp nhất.
Không Quân của Hải Quân gồm các loại:
- Không chiến và oanh kích: F/A - 18A/B/C/D/E/F, F35C, S3.
- Chiến tranh điện toán: E-2C, EP-3E, E-6, EA-6B, EA-18G.
- Trực thăng: UH-1, SH-3, CH-53D, MH-53E, SH-60, MH-60, CH-60.
- Tuần tiễu: P-3, P-8.
- Quan sát: RQ-2.
- Nhiều phi cơ huấn luyện và phi cơ vận tải.
Lực lượng chính của Hải Quân Mỹ là các loại chiến hạm, bố trí khắp các vùng biển và đại dương nhằm bảo vệ chính quốc và quyền lợi của nước Mỹ trên toàn thế giới.
II- Các Hạm Đội
Hải Quân Mỹ điều hành sáu hạm đội, gồm có:
1) Đệ Nhị Hạm Đội (The 2nd Fleet): Đệ Nhị Hạm Đội chịu trách nhiệm huấn luyện những kỹ năng chiến tranh, phát triển và lượng định những chiến thuật hải quân tân kỳ và sẵn sàng ứng chiến.
Đệ Nhị Hạm Đội hoạt động trong Đại Tây Dương từ Bắc Cực đến Nam Cực, từ bờ biển Hiệp Chủng Quốc đến phía tây Âu Châu. Hạm đội cũng tuần tiễu dọc theo hai bên bờ biển Nam Mỹ và một phần bờ biển Trung Mỹ. Tóm lại, hạm đội nhận trách nhiệm một vùng biển 38 triệu hải lý vuông. Khả năng của hạm đội gồm có: hàng không mẫu hạm, chiến hạm, tiềm thủy đỉnh, phân bộ thám sát, lực lượng thủy bộ, Thủy Quân Lục Chiến và những đơn vị tiếp vận lưu động. Đệ Nhị Hạm Đội đặt bản doanh tại Norfolk, tiểu bang Virginia.
2) Đệ Tam Hạm Đội (The 3rd Fleet): Nhiệm vụ chính của Đệ Tam Hạm Đội là tuần tiễu và kiểm soát vùng biển Trung và Đông Thái Bình Dương. Trong thời bình, hạm đội không có lực lượng thủy bộ và hàng không mẫu hạm. Đệ Tam Hạm Đội được thành lập ngày 15/3/1943 như là một lực lượng chiến đấu, đặt bản doanh tại Trân Châu Cảng, tiểu bang Hạ Uy Di.
3) Đệ Tứ Hạm Đội (The 4th Fleet): Đệ Tứ Hạm Đội được thành lập năm 1943 và giải tán năm 1950. Hạm đội được tái lập ngày 24/4/2008 và Phó Đô Đốc Joseph D. Kernar được bổ nhiệm làm tư lệnh hạm đội. Đệ Tứ Hạm Đội gồm có nhiều chiến hạm, hàng không mẫu hạm, tiềm thủy đỉnh... phụ trách tuần hành vùng biển Caribbean, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Hạm đội có nhiệm vụ phối hợp với hải quân các quốc gia bạn, chống bọn buôn lậu ma túy, giữ gìn an ninh khu vực, phản ứng quân sự hỗn hợp, huấn luyện song phương hoặc đa phương. Hạm đội đặt bản doanh tại Mayport, tiểu bang Florida.
4) Đệ Ngũ Hạm Đội (The 5th Fleet): Đệ Ngũ Hạm Đội duy trì một lực lượng hùng mạnh để ngăn chặn hoặc đánh trả những đe dọa từ vùng Vịnh Ba Tư.
Khởi đầu, Đệ Ngũ Hạm Đội được thành lập ngày 26/4/1944 từ lực lượng trung tâm Thái Bình Dương và giải tán vài năm sau thế chiến (1947). Tuy nhiên vào đầu thập niên 1980, nhiều tuần dương hạm, khu trục hạm, tàu vét mìn... được tăng viện đến vùng Trung Đông. Sau cuộc chiếm đóng Kuwait của Iraq năm 1990, một hạm đội lớn nhất kể từ Đại Thế Chiến thứ Hai được thành hình để yểm trợ cho cuộc hành quân Lá Chắn Sa Mạc (Operation Desert Shield) và tiếp theo là cuộc hành quân Bão Sa Mạc (Operation Desert Storm) 1991. Do nhu cầu chiến lược, tháng 7 năm 1995, Đệ Ngũ Hạm Đội sau 48 năm ngủ yên, được tái lập để đảm nhận công tác tuần hành trong vùng Vịnh gồm Hồng Hải, Biển Ả Rập và vịnh Ba Tư. Hạm đội đặt bản doanh tại Manama thủ đô Bahrain (ghi chú: Bahrain là một đảo quốc sa mạc bằng phẳng và cằn cỗi, sản xuất dầu hỏa, nằm trong vịnh Ba Tư giữa Qatar và Saudi Arabia. Tổng diện tích của quần đảo 665 km2, lớn hơn đảo Phú Quốc (Việt Nam) khoảng 100 km2, dân số năm 2007 là 1.046.814 người).
5) Đệ Lục Hạm Đội (The 6th Fleet): Đệ Lục Hạm Đội gồm khoảng 40 chiến hạm, 175 phi cơ và 21.000 quân nhân. Đệ Lục Hạm Đội là thành phần chủ chốt của Hải Quân Âu Châu. Lực lượng tấn công của hạm đội phải kể đến các phản lực cơ tối tân trên các hàng không mẫu hạm, tiềm thủy đỉnh, những tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến với những tàu thủy bộ. Việc chỉ huy hạm đội là trách nhiệm của quốc gia Hoa Kỳ và của Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Bộ tư lệnh hạm đội đặt trên soái hạm USS Mount Whitney và bản doanh đồn trú tại Naples, Ý Đại Lợi.
Đệ Lục Hạm Đội tổ chức nhiều lực lượng đặc nhiệm có chức năng định sẵn:
- Đặc Nhiệm 60: Đây là lực lượng chiến trường của hạm đội gồm một hoặc nhiều hàng không mẫu hạm. Mỗi mẫu hạm được kèm theo 6 tuần dương hạm và khu trục hạm. Mỗi mẫu hạm mang từ 65 đến 85 phi cơ gồm các loại tấn công, không chiến, chống tiềm thủy đỉnh và quan sát. Các chiến hạm hộ tống mẫu hạm cũng dùng để tấn công, tự vệ chống không kích, chống chiến hạm và diệt tiềm thủy đỉnh địch.
- Đặc Nhiệm 61: Đặc nhiệm 61 là nhóm ứng chiến thủy bộ Địa Trung Hải (MARG Mediterranean Amphibious Ready Group). Đặc nhiệm nầy gồm có 3 chiến hạm với tàu đổ bộ. Từ những chiến hạm, thủy quân lục chiến Mỹ di chuyển vào bờ với nhiệm vụ xung kích khẩn cấp. Sau khi đổ bộ, các chiến hạm vẫn giữ vai trò yểm trợ cho đến khi mục tiêu được hoàn tất, đón các chiến binh Thủy Quân Lục Chiến trở về chiến hạm.
- Đặc Nhiệm 62: Là đơn vị Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) viễn chinh (MEU: Marine Expeditionary Unit) với quân số 1.800 người có trang bị thiết giáp, trọng pháo và trực thăng để thực hiện những cuộc hành quân ven bờ hoặc di tản nhân viên dân sự tại những khu vực rối loạn.
- Đặc Nhiệm 63: Là lực lượng tiếp liệu gồm những tàu dầu, tàu thực phẩm, tàu sửa chữa cho toàn hạm đội.
- Đặc Nhiệm 64: Gồm những tiềm thủy đỉnh trang bị hỏa tiễn liên lục địa. Trong thập niên 1970 các tiềm thủy đỉnh nầy có căn cứ tại Rota, Tây Ban Nha. Bộ tư lệnh hạm đội không có ảnh hưởng trong việc chọn lựa mục tiêu tấn công. Những mục tiêu tấn công được tuyển chọn hàng năm bởi Nhóm Kế Hoạch Mục Tiêu Nguyên Tử (Nuclear Target Planning Group) của Minh Ước Bắc Đại Tây Dương.
- Đặc Nhiệm 66/69: Đặc nhiệm 66/69 phụ trách kế hoạch hành quân tiềm thủy đỉnh và chống tiềm thủy đỉnh trong vùng Địa Trung Hải. Đặc biệt, Đặc Nhiệm 69 gồm các tiềm thủy đỉnh tấn công có khả năng tiêu diệt chiến hạm và tiềm thủy đỉnh của địch quân cũng như bảo vệ Đệ Lục Hạm Đội.
- Đặc Nhiệm 67: Gồm những phi cơ có căn cứ tại đất liền, phụ trách tuần tra khắp mặt biển Địa trung hải với nhiệm vụ chống tàu ngầm, trinh sát, giám sát và rải mìn.
6) Đệ Thất Hạm Đội (The 7th Fleet): Đệ Thất Hạm Đội, thành lập ngày 19 tháng 2 năm 1943 từ những lực lượng Tây Nam Thái Bình Dương, là hạm đội lớn nhất với 50 - 60 chiến hạm, 350 phi cơ và 60.000 Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến. Đệ thất hạm đội hoạt động trong vùng Tây Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và vùng Vịnh Ả Rập. Với sự yểm trợ của những Chỉ huy trưởng đặc nhiệm, Đệ Thất Hạm Đội thực hiện ba nhiệm vụ:
a/ Cứu trợ các thiên tai hoặc phối hợp hành quân.
b/ Chỉ huy các lực lượng hành quân trong khu vực.
c/ Chỉ huy các thành phần hải quân phối hợp để bảo vệ bán đảo Nam Hàn.
Trong tình trạng chiến tranh, các hải lực đồng minh trên chiến trường đều chịu dưới sự kiểm soát của Đệ Thất Hạm Đội. Bất cứ ngày tháng nào, 50% chiến hạm lênh đênh trên biển cả thuộc vùng trách nhiệm, trong đó khoảng 18 chiến hạm tuần hành từ Nhật Bản đến đảo Guam. Tư lệnh hạm đội hiện tại là Phó Đô Đốc John M. Bird và soái hạm là chiến hạm USS Blue Ridge trú đóng tại Yokosuka, Nhật Bản.
Các đơn vị đặc nhiệm của Đệ Thất Hạm Đội gồm có:
- Đặc Nhiệm 70: Là nhóm đặc nhiệm chiến trường của Đệ Thất Hạm Đội.
- Đặc Nhiệm 71: Phụ trách kế hoạch và phối hợp các hoạt động của hạm đội.
- Đặc Nhiệm 72: Tuần tra và trinh sát.
- Đặc Nhiệm 73: Phụ trách tiếp liệu.
- Đặc Nhiệm 74: Chỉ huy các tiềm thủy đỉnh.
- Đặc Nhiệm 75: Chỉ huy các chiến hạm nổi.
- Đặc Nhiệm 76: chỉ huy các lực lượng ứng chiến thủy bộ và những tàu thủy bộ tăng phái trong vùng hành quân.
- Đặc Nhiệm 77: Là một phần của Đặc Nhiệm 70 và chỉ huy các mẫu hạm.
- Đặc Nhiệm 79: Là lực lượng đổ bộ được chuyển vận bằng phương tiện của Đặc Nhiệm 76.
III- Đệ Thất Hạm Đội và Vùng Tây Thái Bình Dương
Thái Bình Dương được các tài liệu địa dư quốc tế chính thức chia làm hai phần là Bắc Thái Bình Dương và Nam Thái Bình Dương tuy nhiên Hải Quân Mỹ do nhu cầu kỹ thuật, quy định đại dương rộng lớn nầy theo hướng Đông Tây. Tây Thái Bình Dương trải rộng từ khoảng kinh tuyến 180o đến eo biển Malacca tiếp giáp với Ấn Độ Dương và kéo dài từ Bắc đến Nam.
Sự hiện diện và ảnh hưởng quân sự của hải quân Mỹ trong khu vực Tây Thái Bình Dương được dự liệu như sau:
- Duy trì sự hiện diện thường trực của chiến hạm Mỹ trên khắp khu vực. Điều nầy liên quan đến số lượng chiến hạm, vị trí trú đóng ở Nhật, Guam, Hawaii và có lẽ cả Singapore, kéo dài thời gian luân chuyển thủy thủ đoàn.
- Thường xuyên ghé thăm các hải cảng trong khu vực.
- Tập trận với hải quân các quốc gia trong khu vực.
- Bảo đảm sự tương hợp hệ thống liên lạc giữa chiến hạm hải quân Mỹ và chiến hạm các quốc gia đồng minh hoặc thân hữu.
- Trao đổi nhân viên, sĩ quan, binh sĩ giữa Hải Quân Mỹ và Hải Quân các quốc gia trong vùng.
Thật sự, trong khu vực trách nhiệm của Đệ thất hạm đội vẫn âm ỉ những ngòi nổ dễ dàng bộc phát như là bán đảo Đại Hàn, eo biển Đài Loan, tứ giác Việt-Trung-Phi-Mã.
Eo biển Đài Loan và bán đảo Nam Hàn là nơi tập trung sự quan tâm của chính quyền và dư luận Mỹ thường được thảo luận một cách công khai. Bộ Quốc Phòng dự liệu những kế hoạch sẵn sàng can thiệp khi có những biến cố quan trọng, tuy nhiên nếu vì nguyên nhân chính trị những căn cứ quân sự tại Nam Hàn và Nhật không còn được xử dụng trong việc hành quân hoặc trường hợp các căn cứ đó kể cả căn cứ tại đảo Guam bị hỏa tiễn liên lục địa đánh phá, vai trò của hải quân Mỹ với các hàng không mẫu hạm và tiềm thủy đỉnh trở nên vô cùng cần thiết...
Commander Hung Le of USS Lassen (DDG 82) of Seventh Fleet/Đệ Thất Hạm Đội |
Tứ giác Việt-Trung-Phi-Mã là khu vực mới bộc phát những xáo trộn trong vài thập niên gần đây và phản ứng của các quốc gia Đông Nam Á và các cường quốc kinh tế vẫn còn dè dặt. Dù được che đậy bằng nhiều thủ đoạn, mưu đồ truyền thống của Hán tộc nhằm khống chế và chiếm lĩnh Vùng Đông Nam Á, bắt đầu từ bàn đạp Việt Nam tiến ra biển Đông hay là Nam Hải đều được thế giới theo dõi và kế hoạch quốc phòng của Mỹ luôn luôn đặt Trung Cộng vào đối tượng quan tâm ưu tiên cao nhất.
Bộ Quốc Phòng Mỹ đã lượng định đầy đủ về kế hoạch hiện đại hóa quân đội của Trung Cộng tương quan với những cuộc chiến Iraq, Afghanistan và khủng bố. Mặc dù chiến trường Iraq và Afghanistan bắt buộc gia tăng nhu cầu Bộ Binh và Thủy Quân Lục Chiến nhưng Bộ Quốc Phòng cũng gia tăng ngân khoản cho Hải Quân và Không Quân.
Hiện nay Hải Quân Mỹ có tất cả 282 chiến hạm kể cả 11 Hàng Không Mẫu Hạm và dự định sẽ tăng lên 313 chiến hạm với 12 HKMH trong những năm sắp đến (2010). Trong những cuộc điều trần, Quốc Hội đã có những nhận định rõ ràng về số lượng chiến hạm có thể đương đầu với những thử thách do kế hoạch hiện đại hóa của hải quân Trung cộng, đồng thời vẫn khai triển được lực lượng ở vùng Vịnh Ba Tư, Ấn Độ Dương và những cuộc hành quân bất ngờ trong phần còn lại của thế giới như là vùng Địa Trung Hải, Caribbean, Nam Mỹ Châu, Tây Phi Châu. Như vậy, đề nghị 313 chiến hạm bao gồm 12 hàng không mẫu hạm, có đủ khả năng chu toàn những nhiệm vụ trong thời bình cũng như trong chiến tranh đã được chuẩn thuận.
Những năm trước, hoạt động của Hải Quân Trung Cộng trên vùng Tây Thái Bình Dương có tính cách thăm dò, dè dặt nhưng thời gian gần đây chúng tiến xa hơn và tỏ thái độ thách thức. Tiêu biểu nhất là sự kiện ngày 8 tháng 3, 2009 tại biển Nam Hải (biển Đông) 5 chiếc tàu Trung Cộng quấy nhiễu tàu USNS Impeccable, và sau đó phát ngôn viên Ngũ Giác Đài Bryan Whitman tuyên bố rằng tàu Mỹ sẽ tiếp tục di chuyển trong hải phận quốc tế.
Bộ Quốc Phòng Mỹ và các quốc gia trong khu vực đều có sự quan tâm và giải pháp.
Mỹ tiếp tục gia tăng chiến hạm và nâng số tiềm thủy đỉnh tấn công trong khu vực Thái Bình Dương lên đến 31 tiềm thủy đỉnh vào cuối năm 2009, một sự xoay chiều nghịch đảo so với thời kỳ chiến tranh lạnh. Ngày 22 tháng 4 năm 2009 vừa qua, một phái đoàn sĩ quan Cộng Sản Việt Nam được mời thăm viếng Hàng Không Mẫu Hạm John C. Stennis.
Mới đây, một Bạch Thư của Bộ Quốc Phòng Úc Đại Lợi kêu gọi tăng ngân sách hải quân, đầu tư vào 12 tiềm thủy đỉnh và nhấn mạnh rằng: “Úc không xem Trung Cộng như là mối đe dọa mà là một yếu tố trong quá trình kế hoạch chiến lược”. Bạch Thư cũng đưa ra nhận xét: “Quan hệ giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh có tầm quan trọng đặc biệt cho sự ổn định chiến lược của Châu Á – Thái Bình Dương” và đánh giá rằng: “Hoa Kỳ vẫn sẽ là nước hùng mạnh nhất và ảnh hưởng nhất về mặt chiến lược trong giai đoạn từ nay tới 2030”.
IV- Hạm Đội Thái Bình Dương (US Pacific Fleet) và Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương (US Pacific Command)
1/ Hạm đội Thái Bình Dương là một bộ máy chiến tranh của Hải Quân Mỹ lớn nhất thế giới, bao gồm Đệ Tam Hạm Đội, Đệ Thất Hạm Đội, Không Lực Hải Quân Thái Bình Dương, Lực Lượng Chiến Hạm Thái Bình Dương, Lực Lượng Tiềm Thủy Đỉnh Thái Bình Dương và những lực lượng khác, cấp số khoảng 180 chiến hạm, 1.500 phi cơ, 125.000 hải quân, thủy quân lục chiến và dân sự. Hạm Đội Thái Bỉnh Dương nhận trách nhiệm khoảng 100 triệu dặm vuông biển và đại dương, hơn 50% diện tích địa cầu, từ bờ biển phía Tây nước Mỹ đến bờ biển phía Đông Phi Châu, từ Bắc Cực xuống Nam Cực, bao gồm ba đại dương: Bắc Băng Dương, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và sáu lục địa: Á Châu, Phi Châu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Nam Cực, Úc Châu. Những Bộ Chỉ huy Hải Lực tại Nam Hàn, Nhật Bản, quần đảo Marianas cũng trực thuộc thẩm quyền của Hạm Đội Thái Bình Dương.
Tư Lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương (US Pacific Fleet) hiện nay là Đô Đốc Robert F. Willard và tổng hành dinh đóng tại Trân Châu Cảng, tiểu bang Hạ Uy Di.
Theo tổ chức hiện hành và cơ cấu chỉ huy, Hạm Đội Thái Bình Dương báo cáo theo hệ thống hành chánh về Chỉ Huy Trưởng Hành Quân Hải Lực (Chief of Naval Operations) - Đô Đốc Gary Roughead - thuộc Bộ Hải Quân và theo hệ thống quân giai đến Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương (US Pacific Command) - Đô Đốc Timothy J. Keating - tổng hành dinh đặt tại căn cứ H.M. Smith, tiểu bang Hạ Uy Di.
2/ Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương (U.S. Pacific Command) viết tắt: USPACOM là Bộ Tư Lệnh tác chiến hợp nhất của Quân Lực Hoa Kỳ. Bộ Tư Lệnh nhận trách nhiệm phần lãnh thổ hơn phân nửa địa cầu, trải dài từ bờ biển phía Tây nước Mỹ đến biên giới phía Tây Ấn Độ và từ Nam Cực đến Bắc Cực. Đây là khu vực có sự khác biệt lẫn nhau về văn hóa, xã hội, kinh tế, địa lý và chính trị. Nơi đây cũng là quê hương của 36 quốc gia, chiếm hơn 50% dân số nhân loại với 3.000 ngôn ngữ, nhiều quân lực hùng mạnh của thế giới, năm quốc gia đồng minh với Hoa Kỳ với những hiệp ước hổ tương quốc phòng. Trong khu vực cũng có hai cường quốc kinh tế trong số bốn cường quốc kinh tế (Mỹ, Nhật, Trung Cộng, Anh Quốc), những quốc gia đông dân nhất thế giới, quốc gia theo thể chế dân chủ lớn nhất, quốc gia đa số là tín đồ Hồi Giáo lớn nhất. Hơn một phần ba những quốc gia của khu vực Châu Á Thái Bình Dương là những quốc gia hải đảo nhỏ bé trong đó có Cộng Hòa bé nhất thế giới và quốc gia nhỏ nhất ở Á Châu.
Các quốc gia trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương được liệt kê như sau: Úc Đại Lợi, Bangladesh, Bhutan, Brunei, Burma, Cam Bốt, Trung Cộng, Fiji, Ấn Độ, Nam Dương, Nhật Bản, Kiribati, Lào, Malaysia, Maldives, Marshall Islands, Micronesia, Mông Cổ, Nauru, Nepal, Tân Tây Lan, Bắc Hàn, Palau, Papua Guinea, Phi Luật Tân, Samoa, Tân Gia Ba, Solomon Islands, Nam Hàn, Sri Lanka, Thái Lan, Timor-Leste, Tonga, Tuvalu, Vanuatu, Việt Nam.
|
Một cách tổng quát, Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương USPACOM cam kết sẽ là một đối tác tích cực và đáng tin cậy nhằm bảo đảm an ninh, ổn định và tự do làm nền tảng cho sự phồn vinh của khu vực Á Châu Thái Bình Dương và đề ra các tiêu lệnh:
Ưu Tiên Quân Sự
USPACOM trước tiên là Bộ Tư Lệnh Tác Chiến, cam kết duy trì ưu thế quân sự về nhiều phương cách hành quân. Chúng ta là một lực lượng sẵn sàng và hiện diện.
Tiếp Xúc Đa Phương Tiến Đến An Ninh
USPACOM nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của những giải pháp song phương và đa phương để vượt qua những thách thức về an ninh và duy trì sự ổn định trên toàn vùng. Chúng ta sẽ hành động phối hợp với những nước nào xem trọng sự hợp tác và cộng tác để đem lại an ninh và ổn định.
USPACOM trước tiên là Bộ Tư Lệnh Tác Chiến, cam kết duy trì ưu thế quân sự về nhiều phương cách hành quân. Chúng ta là một lực lượng sẵn sàng và hiện diện.
Di Chuyển Tự Do Và Tiếp Cận An Toàn
Di chuyển tự do và tiếp cận an toàn trên mọi lĩnh vực cho tất cả các quốc gia là điều tối cần thiết cho an ninh và thịnh vượng của toàn vùng. USPACOM không chấp nhận những điều kiện làm cản trở di chuyển và tiếp cận và cũng không tha thứ những hành vi làm gián đoạn những đường dây tiếp trợ toàn cầu hoặc những đe dọa đối với những tuyến đường giao thông và thương mại.
Nổ Lực Của Toàn Bộ Chính Phủ
Sự thành công trong hoạt động hỗ tương của USPACOM trong môi trường phức tạp của vùng Á Châu Thái Bình Dương đòi hỏi một sự hợp tác cao độ, đồng bộ và thống nhất bên trong Bộ Quốc Phòng Mỹ và các Bộ và các cơ quan khác cuả chính phủ. Sự vận dụng toàn bộ chính phủ nầy cho phép chúng ta xem như là một đòn bẫy hữu hiệu đối với các cơ quan thẩm quyền của quốc gia.
Di chuyển tự do và tiếp cận an toàn trên mọi lĩnh vực cho tất cả các quốc gia là điều tối cần thiết cho an ninh và thịnh vượng của toàn vùng. USPACOM không chấp nhận những điều kiện làm cản trở di chuyển và tiếp cận và cũng không tha thứ những hành vi làm gián đoạn những đường dây tiếp trợ toàn cầu hoặc những đe dọa đối với những tuyến đường giao thông và thương mại.
Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương cũng quy định rõ bảy nhiệm vụ như sau:
* Bảo vệ Tổ Quốc.
* Duy trì một khả năng quân sự hùng mạnh.
* Phát triển những thỏa hiệp hợp tác an ninh.
* Tăng cường và mở rộng sự quan hệ với đồng minh và các nước có sự hợp tác với Hoa Kỳ.
* Giảm thiểu tính nhạy cảm đối với chủ nghĩa cực đoan bạo lực.
* Ngăn chận gây hấn quân sự.
* Ngăn chận những kẻ thù địch sử dụng vũ khí giết người hàng loạt.
Trong tuần lễ đầu tháng 6/ 2009 vừa qua, một phái đoàn sĩ quan Cộng Sản Việt Nam đã đến Hạ Uy Di để quan sát cuộc diễn tập cứu nạn bão lụt Makani Pahili. Phái đoàn do Trung Tướng Việt Cộng Trần Quang Khuê, phó chủ tịch thường trực Ủy Ban Cứu Trợ hướng dẫn, đã được Đô Đốc Timothy Keating tiếp đón tại tổng hành dinh với lễ nghi quân cách và sau đó phái đoàn được mời viếng thăm các cơ sở và tiện nghi của Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương.
V- Hàng Không Mẫu Hạm
Mỗi khi một cuộc khủng hoảng xảy ra trên thế giới, câu hỏi đầu tiên của người Mỹ là hàng không mẫu hạm đang nằm ở đâu. Hàng không mẫu hạm được bố trí tại những nơi xung yếu trên biển và đại dương để yểm trợ cho quyền lợi và sự cam kết của nước Mỹ. Hàng Không Mẫu Hạm là chiến hạm được chế tạo để chuyên chở phi cơ, có phi đạo để phi cơ xuất phát và hạ cánh. Kể từ 1922 đến nay, nước Mỹ sản xuất 66 hàng không mẫu hạm, đã giải nhiệm 53, hiện đang xử dụng 11 và dự định hoàn tất một hàng không mẫu hạm (USS Gerald R. Ford) năm 2015.
Hàng không mẫu hạm kết hợp với các chiến hạm khác là một cơ cấu tác chiến quan trọng, nên các cường quốc cố gắng tạo lập các hàng không mẫu hạm để duy trì sức mạnh trên mặt biển. Sau đây là những dữ kiện đơn giản liên quan đến hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ và của các quốc gia khác...
1/ Các Hàng Không Mẫu Hạm của Hoa Kỳ:
* 1.1/ USS Enterprise: 93,500 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng đầu tiên, nhận nhiệm vụ 25 tháng 11 năm 1961.
* 1.2/ USS Nimitz: 101,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 3 tháng 5 năm 1975.
* 1.3/ USS Dwight D. Eisenhower: 101,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 18 tháng 10 năm 1977.
* 1.4/ USS Carl Vinson: 101,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 13 tháng 3 năm 1982.
* 1.5/ USS Theodore Roosevelt: 101,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 13 tháng 3 năm 1982.
* 1.6/ USS Abraham Lincoln: 102,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 11 tháng 11 năm 1989.
* 1.7/ USS George Washington: 102,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 4 tháng 7 năm 1992.
* 1.8/ USS John C. Stennis: 102,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 9 tháng 12 năm 1995.
* 1.9/ USS Harry S. Truman: 102,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 25 tháng 7 năm 1998.
* 1.10/ USS Ronald Reagan: 104,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 12 tháng 7 năm 2003.
* 1.11/ USS George H.W. Bush: 104,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 10 tháng 1 năm 2009.
* 1.12/ USS Gerald R. Ford: đang kiến tạo, 100,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, dự định giao nhiệm vụ năm 2015.
2/ Hàng Không Mẫu Hạm của các quốc gia khác:
1. Ba Tây: Ba Tây đang điều hành Hàng Không Mẫu Hạm Nae São Paulo, 32,800 tấn, từ 15 tháng 11 năm 2000 sau khi mua lại của Pháp.
2. Pháp Quốc: Nước Pháp đang điều hành Hàng Không Mẫu Hạm Charles de Gaulle, 42,000 tấn, vận hành bằng nguyên tử năng kể từ 18/5/2001.
3. Ấn Độ: Ấn Độ sở hữu 3 hàng không mẫu hạm:
o Hàng Không Mẫu Hạm INS Viraat, 28.700 tấn, mua lại của Anh Quốc tháng 4 năm 1986 và nhận nhiệm vụ tháng 5 năm 1987.
o Hàng Không Mẫu Hạm INS Vikramaditya, 45,000 tấn, kiểu mẫu STOBAR (Short Take Off But Arrested Recovery), mua lại của Liên Bang Nga và đang tái tạo, dự định giao nhiệm vụ 2012.
o Hàng Không Mẫu Hạm INS Vikrant, 40,000 tấn, đang kiến tạo theo kiểu mẫu STOBAR, dự định giao nhiệm vụ năm 2014.
4. Ý Đại Lợi: Ý Đại Lợi đang điều hành 2 mẫu hạm:
o Hàng Không Mẫu Hạm Giuseppe Garibaldi, 14,400 tấn, kiểu mẫu STOVL (Short Take Off and Vertical Landing), nhận nhiệm vụ tháng 9 năm 1995.
o Hàng Không Mẫu Hạm Conte di Cavour, 27.000 tấn, kiểu mẫu STVOL, nhận nhiệm vụ năm 2008.
5. Nga: Nga đang điều hành một hàng không mẫu hạm danh hiệu Admiral Flota Sovetskovo Soyuza Kuznetsov, 67.500 tấn, kiểu mẫu STOBAR, hạ thủy năm 1985 tại Tbilisi, nhận nhiệm vụ năm 1991, hoạt động hoàn chỉnh năm 1995.
6. Tây Ban Nha: Tây Ban Nha sở hữu 2 mẫu hạm:
o Hàng Không Mẫu Hạm Principe de Asturias, 17.200 tấn, kiểu STOVL, nhận nhiệm vụ 30 tháng 5 năm 1988.
o Hàng Không Mẫu Hạm Juan Carlos, 27.079 tấn, đang kiến tạo theo kiểu mẫu STOVL, dự định giao nhiệm vụ năm 2011.
7. Anh Quốc: Anh sở hữu 4 hàng không mẫu hạm:
o Hàng Không Mẫu Hạm HMS Illustrious, 21.000 tấn, kiểu mẫu STOVL, nhận nhiệm vụ 20 tháng 6 năm 1982.
o Hàng Không Mẫu Hạm HMS Ark Royal, 21.000 tấn, kiểu mẫu STOVL, nhận nhiệm vụ 1 tháng 11 năm 1985.
o Hàng Không Mẫu Hạm HMS Queen Elisabeth, 65.000 tấn, đang kiến tạo và dự định giao nhiệm vụ năm 2014.
o Hàng Không Mẫu Hạm HMS Prince of Wales, 65.000 tấn, đang kiến tạo và dự định giao nhiệm vụ năm 2016.
8. Thái Lan: Thái Lan đang sở hữu mẫu hạm HTMS Chakri Naruebet, 11.400 tấn, kiểu mẫu STOVL, nhận nhiệm vụ 10 tháng 8 năm 1997 nhưng hiện nay ngưng hoạt động vì thiếu hụt ngân khoản.
VI - Tiềm Thủy Đỉnh
Tiềm thủy đỉnh của Hải Quân Hoa Kỳ dùng vào chiến tranh tất cả đều vận hành bằng năng lượng nguyên tử và chia làm hai nhóm: Nhóm tiềm thủy đỉnh mang hỏa tiễn đạn đạo và nhóm tiềm thủy đỉnh tấn công.
1/ Tiềm thủy đỉnh trang bị hỏa tiễn đạn đạo đầu đạn nguyên tử thi hành một nhiệm vụ chiến lược duy nhất là đánh vào những mục tiêu chiến lược của đối phương: Các đô thị, các căn cứ hỏa tiễn.
Hải Quân Mỹ đang điều hành 18 tiềm thủy đỉnh loại nầy gọi là Ohio class submarines với những đặc tính như sau: Chiều dài 560 ft hoặc 170 m, chiều ngang 42 ft hoặc 13 m, hoạt động vô giới hạn ngoại trừ khi cần tiếp tế lương thực, trang bị 24 hỏa tiễn Trident II D5 SLBM (Submarine Launched Ballistic Missile).
Hỏa tiễn Trident D5 có tầm bắn tối đa 7.456 dặm hoặc 12.000 km, tương đương với tầm bắn của loại hỏa tiễn tàng trữ trong các hầm trên lục địa, mang theo từ 8 đến 12 đầu đạn (MIRV: Multiple, Independently, Targeted, Re-entry, Vehicle). Khi hỏa tiễn tiến đến gần vị trí, các đầu đạn của hỏa tiễn tách ra thành 8 hoặc 12 trái bom nguyên tử và được hệ thống điện toán điều khiển đến các mục tiêu khác nhau một cách chính xác. Theo ước tính của các chuyên viên, mỗi đầu đạn W88 có sức nổ 475 kT, so với quả bom ném xuống Hiroshima 12 kT đã giết hại 150.000 sinh mạng, thì một Tiềm thủy đỉnh chiến lược khai hỏa đủ 24 hỏa tiễn Trident tạo ra một sự kiện khủng khiếp: Hủy diệt hoàn toàn một quốc gia trên địa cầu! (Thỏa Ước START I, Strategic Arms Reduction Treaty giới hạn MIRV 8 đầu đạn).
Tiềm thủy đỉnh chiến lược là xương sống của lực lượng nguyên tử Hoa Kỳ, là một trong ba mũi tấn công bằng vũ khí nguyên tử (nuclear triad) bao gồm oanh tạc cơ chiến lược có căn cứ trên mẫu hạm hoặc trên mặt đất và hỏa tiễn liên lục địa bố trí tại nhiều nơi xung yếu. Tiềm thủy đỉnh mang hỏa tiễn Trident có nhiều ưu điểm vượt trội vì có thể khai pháo vào các mục tiêu thù địch ngay từ lãnh hải của nước Mỹ hoặc tại một nơi bí ẩn thuộc hải phận quốc tế hoặc ngay cả trong vùng biển của địch và chỉ cần khoảng thời gian từ 10 đến 15 phút để đi đến đích, so với 30 phút nếu xử dụng hỏa tiễn liên lục địa từ các hầm chứa (silo).
Hiện nay, Hoa Kỳ, Nga, Trung Cộng là ba siêu cường có đủ ba mũi tấn công nguyên tử, các cường quốc quân sự khác như là Ấn Độ, Pháp, Anh, Do Thái, Pakistan có vũ khí nguyên tử nhưng thiếu một hoặc hai loại phương tiện chuyên chở nói trên.
Cũng có những dự kiến về những loại vũ khí đặt trên quỹ đạo (orbital weapons) hay trên phi thuyền (spacecraft), tuy nhiên điều nầy bị nghiêm cấm theo Thỏa Ước Ngoại Tầng Không Gian (Outer Space Treaty) và Thỏa Ước SALT II.
2/ Tiềm thủy đỉnh tấn công có nhiệm vụ tìm kiếm và tiêu diệt tiềm thủy đỉnh địch, chiến hạm địch, bắn hỏa tiễn Tomahawk, đổ bộ lực lượng đặc biệt, thu thập tin tức, giám sát, trinh sát, yểm trợ hàng không mẫu hạm, chống mìn.
Hải Quân Hoa Kỳ hiện đang điều hành 56 tiềm thủy đỉnh tấn công, gồm có:
* 49 tiềm thủy đỉnh loại Los Angeles với những đặc tính tổng quát: Chiều dài 360 feet (109,73 met), chiều rộng 33 feet (10,06 met), trang bị hỏa tiễn Tomahawk, thủy lôi loại MK48 với 4 ống phóng.
* 3 tiềm thủy đỉnh loại Seawolf với những đặc tính tổng quát: Chiều dài 353 feet (107,6 met), chiều rộng 40 feet (12,2 met), trang bị hỏa tiễn Tomahawk, thủy lôi loại MK48 với 8 ống phóng.
* 4 tiềm thủy đỉnh loại Virginia và đang chế tạo thêm 6 tiềm thủy đỉnh với những đặc tính: chiều dài 377feet (114,8 met), chiều rộng 34 feet (10.4 met), trang bị hỏa tiễn Tomahawk với 12 ống phóng thẳng đứng (Vertical Launching System), thủy lôi MK48 với 4 ống phóng.
Tomahawk là loại hỏa tiễn dùng để tấn công các mục tiêu trên mặt đất với nhiều loại đầu đạn, từ đầu đạn qui ước TLAM-C với 450 kg chất nổ, bom chùm TLAM-D (bomblet-dispensing) đến đầu đạn nguyên tử TLAM –A (200 kT) hoặc TLAM-N. Hiện nay, đầu đạn nguyên tử bị cấm do Thỏa Ước SALT. Tomahawk cũng là hỏa tiễn chống chiến hạm TASM (Tomahawk Anti-Ship Missile), chiều dài căn bản: 5,56 mét, đường kính: 0,52 mét, tốc độ 880 km/h, tầm xa: 2.500 km, hệ thống định vị toàn cầu (GPS) tối tân hướng dẫn hỏa tiễn đánh trúng mục tiêu sai biệt khoảng 10 mét.
Hoa Kỳ là một siêu cường kinh tế và quân sự, diện tích hàng thứ ba thế giới (9.826.630 km2) nằm trên vùng ôn đới của lục địa Bắc Mỹ Châu. Lãnh thổ Hoa Kỳ ngăn cách với cựu lục địa (Á, Âu, Phi) nơi thường xảy ra những những xáo trộn, bằng hai đại dương: Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Tuy nhiên các giới chức chính trị, quân sự, kinh tế nước Mỹ đều nhận thức rõ rệt rằng gần ba phần tư địa cầu bị nước bao phủ, các đô thị đông đúc dân cư đều sống trong vòng vài trăm dặm kể từ bờ biển và nhất là 90% thương mại thế giới đều đi qua đường biển.
|
Trải qua kinh nghiệm của hai trận thế chiến, chiến tranh lạnh, chiến tranh khủng bố và dự liệu đến sự tồn tại và phát triển mai hậu trong khung cảnh thế giới ngày càng mở rộng, Hải Quân Hoa Kỳ được quan tâm và đầu tư đúng mức là một lực lượng bảo vệ đất nước, chiến thắng các cuộc chiến tranh phù hợp với việc ngăn chận chiến tranh. Quan niệm rằng sự an ninh, sự phồn vinh của nước Mỹ được gia tăng song hành với những quốc gia khác cũng trong những lĩnh vực nầy, Hải Quân Mỹ cam kết sẽ là lực lượng bảo vệ hữu hiệu những quyền lợi sinh tử của nước Mỹ ngay cả khi liên kết với quốc gia khác để gia tăng sự thịnh vượng chung trải khắp địa cầu.
Xuyên qua chiến lược của Hải Quân Hoa Kỳ phản ảnh phần lớn chính sách chung của Hiệp Chủng Quốc, các bạn trẻ Việt Nam khắp nơi trên thế giới, nếu bỏ bớt thì giờ để ưu tư; các bạn sẽ suy nghĩ như thế nào và quyết tâm ra sao khi đối diện với tương lai của nòi giống, lãnh thổ và Biển Đông?
Đỗ Hữu Long
Tháng 12 năm 2011
**************
Để tưởng nhớ hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974