Monday, July 28, 2014

Miệng lưỡi con người

Friday, March 4, 2011

Miệng lưỡi con người

Ở MỸ NHỚ VIỆT, Ở VIỆT NHỚ MỸ

Nguyễn Văn Lục


Cách đây 32 năm, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge, thuộc Hạm Đội thứ 7, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền nhấp nhô như lá tre trôi trên biển. Nguời ta thấy những chiếc thuyền đủ loại, đủ cỡ của những nguời Việt Nam đầu tiên bỏ chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này? Chẳng ai trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó có thể tiên đoán được điều gì?

Người ta nhận thấy có nhiều ký giả Mỹ và một số những nhân vật trong chính quyền Mỹ trên chiến hạm Blue Ridge. Chẳng hạn như Frank Snepp, tác giả các cuốn sách: Decent Interval và An Insider Account of Saigon, David Halberstam với The best and the Brightest và một số người khác như H.R. Haldeman, Stanley Karnow.

Karnow nhìn David Halberstam như chế nhạo nói:

-Này anh, công cuộc di tản này hẳn có sự đóng góp công sức của những người như anh?

Halberstam đáp:

-Anh nói không sai, nhưng điều đó chứng tỏ sức mạnh của người Mỹ chúng ta nằm ở chỗ nào? Ðâu có phải chỉ có sức mạnh của B52? Anh đồng ý chứ? Và hôm nay, chúng ta là những nhân chứng duy nhất và cuối cùng chứng kiến cảnh tháo chạy này. Và tôi nghĩ rằng đó là trách nhiệm của tôi và anh ở đây.

Karnow:

-Phần tôi, sẽ không bao giờ quên được câu chuyện ngày hôm nay. Tôi cảm thấy xấu hổ cho nước Mỹ.

Trên ca-bin chỉ huy trưởng của chiến hạm, người ta nghe tiếng đối đáp của ông chỉ huy trưởng với Henry Kissinger. H. Kissinger hỏi viên chỉ huy trưởng:

-Ông có biết bây giờ là mấy giờ ở Hoa Thịnh Đốn không? Trong một giờ nữa mà ông Đại Sứ Martin không có mặt trên chiến hạm của ông thì kể như cuộc triệt thoái của người Mỹ là một thất bại?

-Thưa ông Kissinger, tôi được biết, ông Đại Sứ còn nán lại để cứu vớt những người Việt Nam cuối cùng cần phải được cứu vớt.

Kissinger cáu kỉnh quát trong ống nghe:

-Anh nói với ông ta là lệnh của tôi, ông ta phải lập tức rời VN. Tôi không cần biết phải cứu ai. Sao cái bọn ‘chó chết’ đó không chết phứt đi cho rồi.

Stanley Karnow nghe được cuộc điện đàm đã đưa ra nhận xét: Ông Kissinger và Lê Đức Thọ nói cùng một thứ ngôn ngữ. Ông Thọ cũng gọi bọn người đang lố nhố trốn chạy dưới kia là những đống rác rưởi mà chúng tôi cần tống ra biển. Cả người Mỹ và kẻ thù của họ đều coi VN như một thứ rác rưởi cần phải tống khứ đi cho rồi.

Chẳng bao lâu sau, đại sứ Martin đã có mặt trên chiến hạm và ông đã nhận được một công diện của H. Kissinger đánh đi như sau: “Người Mỹ đến Việt Nam như thế nào thì khi rút đi cũng như vậy. Ðó là thành công của ông, của chúng ta. Congratulations!“

Ngay sau đó, Đại Sứ Martin nhận được từ dưới boong tầu chỉ huy, một cựu tướng VN muốn xin gặp. Ông Martin đã từ chối và nói với viên sĩ quan tùy tùng nhắn lại:

“Nói với ông ta, ở đây không phải Sài Gòn mà là nước Mỹ trên biển. Hiện nay, chúng tôi coi ông ấy như một người ‘vô tổ quốc’. Phải cởi bỏ lon chậu và không được tuyên bố điều gì.”

Người tùy tùng tuân lệnh và nói thêm rằng, ông cựu tướng đó dơ hai tay lên trời với cử chỉ tuyệt vọng, ngửa mặt lên trời và kêu lên rằng:

“Ta thề có trời đất, một ngày nào đó, ta sẽ trở về.”

Lúc này, có lẽ chữ bỏ chạy là đúng nghĩa nhất. Chỉ biết bỏ chạy đã. Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan nhất. Và đã có hơn 100,000 ngàn người trong số 250,000 ngàn người như thế đã được vớt đi định cư từ các chiến hạm của hạm đội 7.

Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin trong những nỗ lực cuối cùng, cố trì hoãn ở lại Sài Gòn đến phút chót để cứu càng nhiều càng tốt những người bạn Việt Nam, hình ông đang bị vây quanh bởi hàng rào ký giả ngay sau khi trực thăng đáp xuống soái hạm chỉ huy USS Blue Ridge.

Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng đến tức tưởi!

Số phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như những lá tre? Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ. Bằng mọi giá, họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại, nhiều người không mường tượng nổi, họ đã có thể làm một điều như vậy. Những cái “sô” vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng Tư và đầu tháng Năm của người Mỹ cũng nói lên được điều này: Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, ngay cả việc trốn chạy.

Ðó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió chướng từ trong đất liền đã thổi giạt họ ra biển....

Hãy cứ tưởng tượng, trong số 250 ngàn người đó, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên, Cái hình ảnh người lếch thếch, lang thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn. Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai cả.

Và cứ như thế, các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách của Hà nội như “đi vùng kinh tế mới”, “học tập cải tạo”, “đánh tư sản, mại bản”, và cuối cùng “đi bán chính thức” nhằm vào giới Hoa Kiều. Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi khỏi nước. Tổng cộng đã có gần hai triệu người trốn đi như thế. Đấy là còn chưa kể những người để lại xác trên biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng ai có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết. Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng nguôi ngoai để lo sinh kế, miếng ăn trước đã.

Tất cả những chính sách vừa kể trên của nhà cầm quyền CS là nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ Ngụy. Và đối với nhà cầm quyền lúc ấy, chỉ có hai cách để làm ‘vệ sinh miền Nam’ là: Tống xuất bọn rác rưởi ra biển hoặc cho đi tù cải tạo.

Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra nước ngoài sinh sống. Và cuối cùng để giữ thể diện hoặc để trao đổi trong thương thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình “ra đi trong vòng trật tự” (Orderly Departure Program). Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ.

Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier noir du Communisme) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu “Những con bò sữa thuyền nhân”.

Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về?

Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những con bò đó? Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về. Việc ra đi theo diện người Hoa, đi bán chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm “nhổ sạch lông” những bọn người lưu vong này. Kẻ rỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ. Vẫn là chuyện vắt đi. Vắt lại mới là quan trọng.

Và để gợi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nước, bọn tay sai. Cho mãi đến năm 1990, cũng còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung họ coi đó là thành phần rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài. Nghĩa là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước. Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt Kiều.

Xin nhắc lại vụ án tàu Việt Nam Thương Tín để chúng ta hiểu rõ Cộng Sản hơn. Trên báo Quân Ðội Nhân Dân, số ra ngày 3/7/1977, trang ba viết như sau:

“Luật lệ trừng phạt những kẻ phản cách mạng đã được ban hành ngày 19/11/1976.” Khoản 9 của điều luật đã ấn định rõ như sau: “Tội chạy trốn theo hàng ngũ địch hay trốn ra ngoại quốc vì những mục tiêu phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù. Trong những trường hợp đặc biệt và nghiêm trọng tổ chức tội phạm sẽ bị kết án chung thân hay Tử hình.” Số phận những người đi tàu Thương Tín và di tản, nhất là giới trẻ đã bị phát tán đi Lào Cay, Thái Nguyên, Yên Bái....

Về phía những người Việt Hải ngoại, xin được nhắc mọi người đến những hoài niệm của những năm đầu ở Hải ngoại để cho thấy tâm trạng chúng ta lúc bấy giờ như thế nào? Những nhà văn đã thay chúng ta nói lên những tâm trạng đó. Có thể là bài viết của Nguyễn Ðình Toàn: Sài Gòn, niềm nhớ không tên, kỷ niệm 30/04. Và nỗi ray rứt trong tập thơ mỏng của Cao Tần nói lên đủ.

Vài câu thơ góp nhặt đó đây để cùng nhớ lại:

Thư quê hương như tên hề ốm nặng
Hồn tang thương sau mặt nạ tươi cười
Ôi trong ví mỗi người dân mất nước
Còn một oan hồn mặt mũi ngu ngơ
Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí
Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông văng
Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương

(Cao Tần)

Và trong số Văn Học Nghệ Thuật, số 1, có bài phỏng vấn người nhạc sĩ tài danh với câu trả lời: “Buồn lắm. Nhớ Việt Nam quá. Thương quá Việt Nam.” nói theo kiểu Phạm Thế Mỹ. Và cứ thế. Ai là người tuôn ra những câu thơ ở Thị Trấn Giữa Đàng những ngày tháng Tư đen:

Xin cúi đầu mình xuống
Khóc quê hương, trói trong tay bạo cường.
Xin cúi đầu một phút
Nhớ anh em, sống trong ngục, trong tù
Nuôi cho sâu hận thù
Mong và chờ, về Việt Nam ước mơ
Một ngày bảy lăm, đứng ở cuối đường
Loài quỷ dữ xua con ra đại dương
Đời hai lần ta bỏ quê, bỏ nước
Phải nuôi ngày sau về ôm tổ quốc....
Ta phải về, ta chiếm lại quê hương
Ta phải về xây lại đời ta
Ta chống Cộng, ta không trốn Cộng
Ta và cả trăm ngàn đồng hương
Mai nay rồi, ta về VN mến yêu.

Thời ấy nay còn đâu.

Rồi cứ như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn. Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải 10 Mỹ kim trong ngày lễ Noel mà là 3 tỉ Mỹ kim. 3 tỉ Mỹ kim tình nghĩa hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi như kẻ thù.

Gió đã đổi chiều, nên ngôn ngữ cũng đã đổi theo. Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Son Nhất đến Nội Bài, chạy thẳng vào Bắc Bộ Phủ. Thật là trớ trêu đến nực cười. Lúc ra đi trốn chui, trốn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân.

Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh. Ðã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy ra. Rác rưởi cứ thế đổi hình, đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.

Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ oe oé. Kể gì đến những hiện tượng nhỏ nhoi đó. Ðã có rất nhiều thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người Việt di tản, nhất là nơi người trẻ. Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ, hỏi không dám mở lời. Ngày nay họ là những chuyên viên hàng đầu của xã hội Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ. Có người trong bọn họ, cùng với bạn đầu tư nửa tỷ Mỹ kim tại nơi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, “Củ Chi với những địa đạo”, nơi tự hào về cuộc chiến thần thánh trong tương lai trở thành biểu tượng “thung lũng của ngành tin học”.

Và cái kim chỉ đường cho người Việt tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ. Không phải do một thiểu số những người lớn tuổi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà quên phần cuối. Những câu chuyện do người lớn kể ngày càng nhạt phèo như nước ốc. Phải chăng thời của họ đã hết? Họ bám víu vào những bèo bọt mà chính họ cũng chẳng còn thiết tha gì. Nhưng nếu không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ?

Phải chăng cuộc ra đi bất hạnh nay đã trở thành đại hạnh cho chính mình, cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi tới và cả cái nơi mà từ đó mình đã ra đi?

Hãy nhìn vào những con số để nhận ra câu chuyện thần thoại về người Việt di tản. Năm 1987, mới chỉ có 8 ngàn người về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm 2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ lẽ ra. Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một số tiền mặt là 2 tỷ 6 Mỹ kim trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm 2003, Việt Nam xuất khẩu được 20 tỉ Mỹ kim, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?

Có một điều, nhiều người vô tình quên là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách tiêu 2000 Mỹ kim đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu? Trong số 300,000 người Việt về thăm quê hương, cứ cho là vừa tiêu xài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 Mỹ kim cho một chuyến về thăm quê hương, cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được tăng lên không nhỏ.

Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy hứa hẹn. Ðó là nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói. 10 năm nữa, dự đoán số khách du lịch là 10 triệu người mỗi năm như Thái Lan hiện nay, với các đường bay thẳng Sài Gòn-Mỹ, Sài Gòn-Âu Châu. Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy ra. Lúc đó, tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay trên hầu hết 60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.

Điều đáng nói hơn nữa là nay có một số Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với gần 100 dự án được chấp nhận với số vốn đầu tư con số xấp xỉ một tỉ Mỹ kim. Những Việt kiều như Nguyễn Chánh Khê với phát minh chế tạo thành công Carbon Nanotube (áp dụng vào việc sản xuất mực in và các sản phẩm công nghiệp cao khác) không phải là hiếm. Dự án khu khách sạn Sofitel Vinpearl Resort–Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre nay đã thành sự thực. Nha Trang đã khánh thành khu Vinpearl Resort vào cuối năm với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng. Phần lớn các số tiền đầu tư này tập trung vào lãnh vực công nghiệp, điện toán, lắp ráp, du lịch.

Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời gọi Việt Kiều là những người con của đất nước. Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn là không thiếu.

Gió chướng đã không còn nữa. Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa. Trên tất cả các sách báo, trên các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến chế độ miền Nam trước đây nữa. (1) Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa. Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như “Tổ quốc Việt Nam, quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ.” “Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước”.

Luật quốc tịch điều hai thì viết rõ ràng thế này: “Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam, là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.”

Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: “Tổ quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng.” (Hồ Chí Minh nói với kiều bào ở Thái Lan về nước năm 1960.)

Từ Sài Gòn ra Biển Đông (30/4/1975)

Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được. 32 năm sau, câu chuyện kể về thuyền nhân chỉ còn là dĩ vãng mà cả bên này bên kia, nhiều người đã quên hoặc cố tình quên.

Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền Mỹ kim từ mọi nơi gửi về cũng như người Việt mang tiền về nước. Mang tiền về thì được chứ đừng mang chữ về. Chữ hiểu theo nghĩa rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ thuật. Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay, chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng. Nó nằm trong một hệ thống khép kín: Chủ nghĩa hay ý thức hệ bạo lực khủng bố và một chính quyền toàn trị. (Ideology, terror, and totalitarian government).

Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm: chẳng hạn cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn vừa chơi đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu, lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu, chính quyền địa phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử thằng ăn cướp đủ kiểu, và cuối cùng xã hội loạn đủ kiểu.

Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng đến chính trị. Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến chính trị.

Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già với xe hơi SUV. Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, đường hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc hoàn tất thành phố Sài Gòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.

Nay ở Sài Gòn, đã có những khu nhà “Làng Việt Kiều”. Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada. Người ta thấy những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sài Gòn. Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu cam kiểu California, có những hàng dừa cọ, những hồ bơi với những hàng chữ tiếng Anh: “Welcome!” Ðây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 32 năm về trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo.

Dự án Làng “Việt Kiều Châu Âu” tại Mỗ Lao-Hà Nội, đã ký hợp đồng bán nhà cho khách nhưng sau đó bị “trượt giá” trước khi tiến hành xây với lý do “chưa được giao đất nên chưa xây.

Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?

Chẳng hạn, anh chàng Võ Quy, kèm theo cái tên Larry. Và vô số những tên như thế Catherine, Julie, Elizabeth, Brigitte, Linda.... Nay Võ Quy đã gần 70 tuổi, trước đây là một sĩ quan không quân, quân đội VNCH. Anh ta đã rời bỏ vùng Southern California cách đây 6 năm cùng với vợ, Linda, còn có tên cúng cơm là Ngọc để về ở đây. Anh ta khoe căn nhà với vẻ hãnh diện không cần dấu diếm với đồ dùng toàn bằng Inox (thép không rỉ), phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết trí theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn.

Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm: “Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt đấy. Thiệt là quá rẻ, còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ rất nhiều.” (2)

Thiệt là Việt Kiều!

Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án “thành phố xanh” (Green city).

Cái điều oái ăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta bằng mọi cách nhắc nhớ đến Sài Gòn, tìm cách đặt tên Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Ðịnh, bánh cuốn Ðakao, Restaurant Hoài Hương, Phở Hà Nội, Brodard restaurant, phở Nguyễn Huệ để nhớ về miền Nam thân yêu. Nay ở Việt Nam thì người ta lại muốn đặt tên cho những khu thương xá là “tiểu Cali ”, “tiểu Fairfax ” để nhớ đến. Và cứ như thế, sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc Mỹ hóa của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.

Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam, khi ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những người đồng bào của họ. Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ chủ nhân, cách biệt với dân bản xứ. Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực tức về một căn nhà hàng xóm đã vất những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta, đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm ĩ cả lên. Anh bực tức nói: Như thế không phải lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp. Như thế là thiếu văn minh.

Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn hoá Việt, không muốn trở thành một mẫu trong Melting pot hay Sàlát Mỹ. Anh bắt con đi học tiếng Việt. Về Việt Nam, mở mồm là anh chỉ xổ tiếng Mỹ. Cái mâu thuẫn như thế rất là Việt Nam. Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức nhiều về những điều trái tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại trước.

Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như không biết gì về Việt Nam, anh cũng không có ý ở hẳn VN. Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt khác. Nguyễn Anh sững sờ khi làm một việc gì giúp người khác không nhận được một tiếng "thanh kiu, thanh kiếc" gì hết. Anh cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hàng khi trả tiền. Nhất là các cô thiếu nữ trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai. Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống chen lấn chụp giựt.

Nguyễn Anh có hơi buồn về con người Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết người mà mọi người dửng dưng. Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh lại không hiểu gì về người mình.

Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh không hiểu được là người Việt Nam “Xem thể thao” chứ không chơi thể thao. Mấy triệu người thức đêm, bỏ công ăn việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài truyền hình theo dõi một trận đá banh. Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ có 22 cầu thủ thực sự chơi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể còn cá độ. Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc.

Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.

Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn chơi ngon, Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết chơi, vì ở đó có sân chơi nổi tiếng là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng. Nhưng có người thấy như thế thì lấy làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thế để chơi Golf. Chơi đâu chả được. Phí tiền nữa. Nguyễn Anh không đáp lại, vì anh có cái lý của anh. Ðúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.
Còn về thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là địt. Sáng ra, chỉ hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho một câu.

Nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ. Thời gian sẽ xoá nhoà tất cả vết tích cũ: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống Cộng giảm xuống và tình hoài hương lại trỗi dậy. Những vị lãnh đạo trong nước thì nghĩ rằng: Nhân dân muốn quên hết mọi thứ. Những người này hiện ở đây vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền trách mắng họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến tranh lần nữa.

Gió chướng đổi chiều đến đâu có thể còn chưa biết rõ được. Tôi tự hỏi bao giờ làn gió chướng đó cùng với con lốc đầu tư tư bản đánh bật chủ nghĩa Cộng Sản ra biển?

Chỉ có một điều tôi biết chắc rằng, ngay cả những người theo làn gió chướng đổi chiều, đã về VN. Họ cũng cảm thấy họ chẳng sung sướng gì, đôi khi tỏ ra buồn phiền, nghi kỵ, thất vọng không muốn nói ra. Ðó là trường hợp hợp ông Nguyễn Cao Kỳ. Ðó cũng là trường hợp một người trong số 17 người vừa được vinh danh “Vinh Danh Việt Nam – 2006″?

Tôi có cảm tưởng họ đang chơi một canh bạc giả, biết như thế mà vẫn chơi, chơi cho biết.

Gió chướng đã đổi chiều? Nhưng đổi thế nào thì còn chưa nói hay [ngay] được. Bảng chỉ đường đất nước vẫn còn có thể chỉ trật đường. Xin dè dặt. Thận trọng và khôn ngoan để đừng thêm một lần nữa mắc mưu Cộng Sản lừa phỉnh.

Nguyễn Văn Lục

Bấm vào đây để in ra giấy (Print)

Đăng ngày Thứ Ba, DEC 7th, 2010
Ban Kỹ Thuật K10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH

Tro ve dau trang

THƠ VĂN TRONG TÙ

(Huy Vân)

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà đảng CS hô hào chiến thắng thống nhất đất nước, lại là ngày khởi đầu những tháng năm tù đày cho cả miền Nam; hầu hết hơn 270 trại tù do chính những người tù xây dựng trong vùng rừng sâu nước độc, trải dài từ Bắc đến Nam; giam giữ hằng trăm ngàn Quân, Cán, Chính và dân lành vô tội!.

Chính sách “ đại đoàn kết dân tộc” thể hiện bằng biện pháp kêu gọi hằng trăm ngàn quân dân cán chính chế độ cũ trình diện “học tập cải tạo” ở các địa điểm khắp các tỉnh thành miền Nam do Uỷ ban Quân quản đưa ra.

Một trong số những địa điểm tập trung “ngụy quân- ngụy quyền” là trại Long Giao, trại Suối Máu thuộc tỉnh Biên Hòa; khởi đầu theo lệnh mang đồ dùng cá nhân học tập 10 ngày; hết 10 ngày, qua 1 tháng; rồi lại hết 1 năm và sau cùng “thành khẩn học tập lao động tốt từ năm này cho đến muôn năm”.

TÙ CHUYỂN RA BẮC

Cuối tháng 6/1976, một số lớn tù nhân được chuyển bằng tàu thủy, rồi chuyển bằng tàu hỏa, đường bộ về Hoàng Liên Sơn. Những năm đày ải ra miền Bắc là thời gian bạc ác tồi tệ nhất; đói khát, bệnh tật chết vì không thuốc men, lao động kiệt sức, không người thân thăm viếng v.v..

Liên trại 6 tại vùng núi Hoàng Liên Sơn, lòng chảo Điên Biên Phủ núi đồi hiểm hốc, không một bóng người qua lại, là vùng tử địa cướp xác tù dễ dàng khi lâm bệnh! Người tù chịu bao nỗi cực hình, lại thêm biệt âm vô tín!

Ngày ngày lao động nặng nhọc, sáng sớm rời cổng trại, cố gắng vượt qua 3 ngọn đồi có hình nấc thang nằm về hướng Tây bắc trại, tù đặt tên là Đồi Ba Dội. Phải mất hơn 4 tiếng đồng hồ mới đến đỉnh đồi thứ ba vừa khoảng 11AM, với ánh nắng hanh vàng chói chang dưới chân đồi. Người tù đứng chênh vênh trên ngọn đồi được bao phủ cả một áng mây trắng đục, lành lạnh, chỉ đứng cách xa 1 thước vẫn không thấy nhau; mây đang bay lơ lửng, bay lang thang vay kín cả khu núi đồi trùng điệp. Giữa cảnh đẹp thơ mộng này, người tù như chơi vơi giữa cảnh thiên thai?! Vừa mơ mộng như sắp được vào Thiên đàng; lại vừa lo sợ trợt chân ngã vào vực thẳm Sơn La địa võng !

Sơn la đỉnh cao Đồi Ba Dội
Mây trắng bay buốt lạnh thân tù
Miền hoang dã, ngục tù tăm tối
Sao cảnh hư vô quá bẽ bàng!.

Chưa kịp nghỉ ngơi 5 – 10 phút, lại tiếp tục lục lạo, xông xáo tìm kiếm cây nứa, cây vầu đúng kích cỡ ấn định, vội vàng chặt 10 –12 cây, buộc thành bó từ đỉnh núi cao lại lần mò vác hết bó nứa về trại.

Mồ hôi ướt đẫm cả áo quần, bụng dạ đói meo cồn cào, chờ đến giờ cho ăn chỉ có sắn khoai thay cơm, vắt vừa tròn nắm tay.

Nơi đây, núi rừng khí hậu nghiệt ngã, rừng sâu nước độc, anh em gọi là Tổng Đàn của bọn Hắc đạo trong truyện Kim Dung, là nơi bọn người dùng tà thuyết hãm hại giết dần những người chống lại chúng!. Sống trong cảnh tuyệt vọng vô vàn này thấy mà thảm thương!
Tức cảnh sinh tình:

MÀN TRỜI CHIẾU ĐẤT

Trời rét quá càng thêm thấy lạnh
Cảnh đọa đầy cơm áo mong manh
Núi rừng sâu, một mầu xanh cỏ
Đá gập ghềnh, chôn dấu thân anh

Ngày hai bữa, khi sắn lúc khoai
Cơm thiếu ăn đào xới củ mài
Sâu một trượng thêm vài ba quả
Gửi vào lòng chẳng thấy ngày mai

Áo anh loang lổ, quần tơi tả
Sương gió bạc mầu lẫn mồ hôi
Đường anh đi, phải chăng mai một
Hận cho đời đen bạc thế thôi!.

Đồi cao vách đá quá cheo leo
Thân anh trôi giạt như cánh bèo
Ngập đầy giông tố mưa dài khổ
Chống đỡ cơn đau vững tay chèo

Đêm nay gió lạnh đặc mù sương
Ngục tù đen tối khắp nẻo đường
Người nối người nhìn nhau đói khát
Màn trời chiếu đất thấy mà thương!.


Mùa này lại tiếp nối mùa khác; những đêm có trăng, tường vách khu trại còn trống trải vừa mới che tạm bợ, đêm khuya càng hiu quạnh, sương lạnh đắp bờ vai; trăng tỏa khắp vùng trời bao la, khắp núi đồi hoang vu và nơi đây những láng, trại đang còn ngổn ngang. Tù nhân ngày lao động vất vả, tối đến mệt mỏi, ngất lịm trong cơn đói đang cồn cào dằn vặt, chập chờn trong giấc ngủ ánh trăng len lén xuyên qua khe tường vách lá; trăng đến rồi đi trong giấc mộng bâng quơ !. Nỗi buồn nào, mà không xót xa ?! khi nhìn trăng vời vợi..


NHÌN TRĂNG

Nhìn trăng nghiêng bóng qua song
Vừa thương vừa nhớ sầu đông lại về
Em ơi! Nhớ giữ lời thề
Sau cơn bão táp anh về với em

Mùa đông rét mướt thâu đêm
Anh nằm canh cánh bên phên gió lùa
Gió đưa, gió thổi rì rào
Vợ Nam chồng Bắc ngày nào gặp nhau

Trăng buồn vượt đĩnh non cao
Len vào song cửa vấn an bạn đời
Đêm nay trăng đến bên lòng
Lồng chim khóa chặt từng vòng kẽm gai

Ước mơ sớm gặp ngày mai
Cho trăng hết vướng bờ gai đầu tường .


Nơi đây không có ngày về, ngày về còn xa lơ, xa lắc; chỉ thấy mỗi ngày cứ thêm rơi rụng từng người, từng người vội vả ra đi!! Kiếp đọa đày lao động khổ sai; đói khát, bệnh tật cứ triền miên tháng ngày!. Ngày lại ngày băng rừng vượt suối, đốn gổ xẻ rừng và mong nhặt thêm ít khoai, đào thêm ít củ nừng, củ chuối; bắt cóc, nhái ễnh ương v.v.. chui lòn bao tử ! Nỗi tủi buồn, nhớ vợ thương con, khi tưởng đến cha mẹ già, càng ngậm ngùi cay đắng !.

NHỚ MẸ

Tôi có mẹ già tóc bạc phơ
Mẹ tôi hiền, đẹp tựa bông hồng
Danh lẫy lừng, vang khắp thiên hạ
Sáng ngời xanh, Hòn Ngọc Viễn Đông .

Tuổi hai mươi thế kỷ vàng son
Tôi lớn lên mẹ con vuông tròn
Mẹ thương con, con nhớ thương mẹ
Tình mẫu tử dạt dào siết khôn .

Thưa mẹ,

Trong dĩ vãng con làm tất cả
Dâng lẽ sống con giữ quê hương
Máu từng chảy loang hòa vào nước
Thấm vào đời, con mến muôn phương .

Nhớ những chiều Đàlạt sương rơi
Đây Vũng tàu gió lộng bể khơi
Sàigòn xinh tươi, như Hoa Đăng Hội
Sức sống vươn lên nhộn nhịp đời .

Thôi là hết mùa hoa chớm nở
Tủi phận mình chưa rửa nợ trần
Bao tháng ngày, mặt trời đi ngủ
Lạnh ngoài đời, lạnh khắp châu thân

Bao tủi nhục, căm hờn xót xa
Bao cay đắng, nhớ thương mẹ già
Con mong đợi, mặt trời thức dậy
Cho mẹ con gặp nhau đậm đà.

**


Cuối năm 1978, để tránh cuộc chiến tranh giữa hai nước từng là anh em thân thiện nhất, cùng tôn thờ một Chủ nghĩa gọi là XHCN, ViệtNam & Trung cộng!. Tù ở các vùng dọc theo biên giới gấp rút chuyển về miền bình nguyên, chúng tôi được chuyển về Trại Nam Hà B. Trại này có hỗn danh gọi là Trại Đầm Đùn nói lên sự cai quản cũng gian ác, đày đọa kinh hồn.

Kể từ nay, bộ đội trao lại quyền quản giáo cho Công an. Sách lược của chúng là giam giữ tù, ngày càng làm tiêu hao sức lực, bỏ đói khát và bắt buộc lao động khổ sai, đau ốm chết chóc càng nhiều càng tốt! Mặt khác CS lại đặc ân cho một số người hèn nhát, tiếp tay làm tay sai cho chúng, những tên đốn mạt này, anh em thường lánh xa, cách biệt và họ chỉ biết trơ trẻn thủ phận một mình, thấy mà thương hại! Về đến Nam Hà, trại xây cất rộng lớn, có tường đá cao bao bọc kiên cố, mỗi gian nhà có thể chứa 200 người; nhốt tù vào các dãy phòng, chật cứng, người sát người, dơ dáy và ngột ngạt. Phòng ở kín đáo, nên mỗi chiều sau giờ điểm danh, khóa cửa, anh em lại có dịp gần gủi nhau, chia sẻ an ủi nhau, hoặc tụm năm, tụm bảy kể chuyện, đọc thơ, ca hát v.v..Trung tá Nông - A - Pang, cựu Sĩ quan tùy viên Lào; về đêm thường kể chuyện: - Chưởng, Đường rừng, Ma quái, Chuyện dài xứ Ba Tư Nghìn Lẽ Một Đêm v.v.. lôi cuốn, hấp dẫn làm anh em say mê quên hết cả mệt nhọc trong ngày; anh em rất quí mến, thường gọi ông là: - Tiên Sinh Pang! Nay ông đã trở nên người thiên cổ. Xin chia sẻ sự đau buồn và trân quí đến gia đình người quá cố!

Đặc biệt những đêm dài mưa rơi gió rét, buồn man mác; nơi đây, cái lạnh và đói cuộn chung nhau làm một, gói thuốc lào lúc này là thần dược diệu kỳ, khói thuốc thả lượn bay bay và những dòng thơ ai oán như cứ luôn tuôn trào..

THÔI HẾT NHẠT NHÒA.

Ngoài trời gió thoảng mưa rơi
Lòng anh xao xuyến buông lơi phím đàn
Tiếng tơ nức nở vô vàn
Gửi mây lướt gió ngỡ ngàng trao ai

Em hởi em có nhớ anh không
Có bao lần em đã chờ mong
Ngày xưa trời nước mênh mong rộng
Bây giờ chỉ biết có đợi trông

Từng thu chết, đông về giá lạnh
Đã mấy mùa, tím ngắt mặt trời đông
Bao tháng ngày sống trong cảnh chim lồng
Đường hoa mộng vẫn chờ bay trước gió

Em có biết những đêm dài nơi đó
Lửa lập lòe thuốc lịm tắt trên môi
Dòng khói xanh, như khơi nhớ một thời
Bao dĩ vãng dâng lên trào khóe mắt

Nơi đây sương gió phủ đầy
Vượt hằn gian khổ có ngày hoan ca
Vườn Xuân sắp lại nở hoa
Tình ta thôi hết nhạt nhòa từ nay .


Dần dần, cuộc sống tại trại Nam Hà B, cuối tuần vào ngày Chúa nhựt buổi sáng, tùy tình hình anh em ở bên ngoài lén nhập vào khu bên trong (nơi đây có 2 khu). Ban tổ chức quan sát tình hình lính gác và nghiên cứu cấp thời chọn phòng tương đối kín đáo, phổ biến cho nhau biết trước 5 – 10 phút – tập trung sinh hoạt và cẩn mật đề phòng chuyện bất trắc có thể xãy ra. Buổi sinh hoạt đầu tiên do Trung tá Thông (81 BCD) và Trung tá Hồng (Phòng Quân Huấn B.TTM) phối hợp tổ chức một chương trình Văn nghệ bỏ túi đặc biệt giới thiệu:

- Đây là: - Tao Đàn Tiếng Thơ Nhạc Tự Do Trong Ngục Tù CS, với những bản nhạc tù khúc nóng bỏng và những bài thơ say men trong niềm tin bất khuất, dù có phải xé gan bẻ cật vẫn phù cương thường. Tất cả anh em tham dự, đồng loạt vung cao cánh tay và hân hoan đón nhận những tràn pháo tay nồng nhiệt..

SAY

Rượu không uống, sao người mãi say
Trời đất xoay quay bao đắng cay
Ôi biệt ly, buồn dài thế kỷ
Để nhớ về, tràn ngập chân mây

Người chiến sĩ đi trong mưa gió
Thân hải hồ khoác áo chinh y
Mỗi lần đi mấy khi trở lại!
Từng dọc ngang, khắp nẻo biên thùy

Ba mươi năm chiến tranh máu lửa
Biết bao lần bom đạn tên bay
Nhưng không chết, trên hào trận tuyến
Và vẫn sống trong lòng hôm nay

Làm chiến sĩ sống đời oanh liệt
Nợ tang bồng phải trả cho xong
Thắng không vinh, bại không nhục
Hận thù này, khắc cốt ghi lòng

Rượu đâu uống sao người mãi say
Ta say trong bốn bức tường dầy
Khi buồn muốn la, vui lại khóc

Lúc tỉnh khi say hỡi rượu cay!.


Buổi thơ nhạc trên làm nền tảng cho bước đi trong âm thầm qua bao sự khắc phục chịu đựng đè nén trong tâm khảm người tù, nay đánh thức tinh thần anh em, tạo cho mỗi người, biết đoàn kết thương yêu nhau hơn!. Khí thế càng hăng say, tình thần hưng phấn được sáng tạo một cách lạ lùng, ngay trong cái lồng sắt lúc nào cũng canh phòng gay gắt, phụ họa là thành phần ăng ten luôn bám sát gót chân tù. Nếu không cùng một lòng, chắc rằng lưới bạo tàn sẽ dập tắt! Những cùm, kẹp tha hồ chăm sóc kỷ đối anh em hết lòng ..Thơ nhạc nở rộ trong ngục tù, là những dịp rửa sạch tâm hồn người tù vì qúa tủi nhục, không một ai dám lên tiếng hoặc chống đối nhà tù; tiếng đàn, tiếng nhạc, tiếng thơ ngân vang trong những tụ điểm, những nơi kín đáo, những lúc nhàn rỗi làm xoáy động những tâm hồn đang chết lặng vì ngục tù CS dã man nhất thế kỷ!.


NGUYỆN CẦU

Trời hỡi trời! tôi quá đau khổ
Mang thân tù chuốc lấy đọa đày
Đường tôi đi vinh, nhục đôi ngã
Hận biệt thù, lại thêm đắng cay

Nhục nào hơn bằng nhục mất nước
Vực nào sâu bằng vực tù đày
Nắng vàng không ấm người mong đợi
Ngẩng mặt nhìn trời chỉ thấy mây

Nơi đây máu mắt đong thành đá
Suối chảy rừng sâu gợi thêm sầu
Nắng cháy da đầu, lòng vẫn lạnh
Mùa đông giá lạnh, sốt đêm thâu

Trời hỡi trời ông giờ ở đâu
Bao nhiêu năm tháng tôi nguyện cầu
Cho ViệtNam không còn đau khổ
Cho nươc nhà sớm hết Cọng nô !

Suốt ngày lao động cực nhọc, chiều tối cơm nước không đủ cung cấp nhiệt lượng, đêm về, bao nhiêu hoài vọng thương nhớ không sao nhắm mắt, và cứ mơ tưởng về Sàigòn!.

Đêm đêm mơ thấy Sàigon,
Đèn xanh đèn đỏ có còn đâu em!.

Giấc mộng ray rứt làm tâm hồn lâng lâng bồn chồn, nôn nao và trông đợi. Giấc mộng chỉ mơ được thấy Sàigòn.. Gió ù ù thổi thêm lạnh, tâm hồn như u uất, vang vọng trong lòng não nuột cả khung trời ly biệt! Ngoài trời mưa vẫn cứ rơi..

CHO TÔI SỐNG LẠI MỘT NGÀY

Nghe mưa rơi, lòng ta nức nở suốt canh dài
Nghe gió thổi, sầu thêm cô quạnh
Đã mấy mùa ? Mấy mùa đông giá lạnh
Khung trời vắng lặng bóng trăng sao

Ôi biệt ly buồn lắm thương đau
Ai cách ngăn ? tình yêu chan chứa
Ai đã xé nát con tim đôi lứa
Nhưng vẫn nhớ mãi trong lòng

Nhớ em như nhớ dòng sông
Thương em như thương dòng suối mát
Cung đàn tiếng thơ ta hát
Cho tượng đá mắt cũng lệ nhòa

Nơi đây không có mùa xuân nắng đẹp hiền hòa
Nhưng vẫn nhớ, ngày nắng ấm lam chiều khói tỏa nhẹ
Em đi từng bước lòng vẫn thấy lẹ
Chờ trăng lên nao nức không quên đời

Hỡi ôi! Ngày ấy đã xa rồi
Và từ nay, ngày không ngày, trời đất như cuồn quay sụp đổ
Ôi quê hương! Ôi tình yêu tan vỡ
Trong tối tăm, cho tôi sống lại một ngày.


Kể từ nay lúc lên núi xuống đồi, khi có dịp quay quần bên nhau, bạn Nguyễn văn Thái khóa 15 ĐàLạt với cây đàn Guitare vừa được gia đình gửi đến, anh ray rức lay động qua lời thơ mộc mạc hiền hòa và anh phổ thơ bản nhạc: Cho tôi sống lại một ngày..


Cả đội Rau Xanh như thêm sức sống mới và càng hy vọng hướng về tương lai và làm cho đội Mộc và Rèn nằm gối đầu bên cạnh, cùng vui hưởng những giây phút rung cảm, khi nghe bạn Thái cất tiếng hát nảo nề, ai oán trong những đêm mưa gió sụt sùi. Tiếng hát như gào thét giữa đêm trường, lúc trầm, bổng, dồn dập bềnh bồng như xua cái đen tối thân phận tù đày rồi sẽ qua mau.

***

TÙ CHUYỂN VỀ NAM

Cuối tháng 12/1980 toàn Trại Nam Hà B có khoảng 2000 người chuyển về Nam, sau 5 năm đày đọa và hãm hại thê thảm tại các trại tù miền Bắc. Nào LaoKay, Yên Báy, Sơn La, Phong Quang, Hà Nam Ninh v.v.. CS vắt hết mô hôi, nước mắt và xương máu tù nhân, nay chỉ còn bộ xương khô lê lết trên đường về là cả một trời tím ngắt!..


XUÔI NAM

Đường trở về thoáng hiện quê hương
Niềm thương man mác sao khác thường
Bao năm xa cách càng uất hận
Ai thấu lòng ta có biết chăng

Vẫn trăng đó vẫn khung trời xanh
Một nửa hồn đau tím cả lòng
Ai tri kỷ? Ai người phản bội
Mang đất nước nầy đến thương vong

Hà Nội ơi!

Bao năm chìm đắm trong bức màn sắt
Hà nội không tiến, lịch sử vẫn không ngừng
Hà nội dừng lại, dân chẳng đặng đừng
Màn đen che khuất, cơn ác mộng hãi hùng

Sàigòn ơi!

Ngày sóng đỏ, ngập đầy cánh đồng xanh
Đã gây bao thê lương tang tóc
Miền Nam kinh hoàng, trong máu lửa loài quỉ đỏ
Quỉ đỏ! Quỉ đỏ!
Mi là quân thù
Ta thề quyết không đội trời chung

Mi nói Tự Do
Dân chẳng thấy no
Hô hào Dân chủ
Đặc quyền quan to


Dân làm như phu
Chẳng khác thân tù
Lãnh tụ gian ác
Nhốt cả thầy tu


Để rồi, bao hưng vong của đất nước,
Đâu còn tiếng chuông Giáo Đường,
Thức tỉnh mi,
Đang gây nhiều tội ác

Hỡi hồn thiêng núi sông nước Việt
Hỡi anh linh phảng phất đâu đây
Hỡi những người lâm cảnh tù đày
Hãy cùng nhau, dựng lại quê hương mình!.



TRẠI Z30D

ÂM THẦM NỖI DẬY!


Trại Z 30D vừa đón nhận 2000 tù từ Trại Nam Hà B như nói trên, sau 2 ngày phân tán còn lại 120 tù chuyển về Trại C, đến nơi các bạn tù Vĩnh Phú về trước1 tuần, thông báo sẽ có kiểm tra. Một tập Sớ Táo Quân được các bạn bè cất giấu dùm vừa thoát cảnh lục soát gay gắt. Ngay tối ngày 23 tháng 12 âm lịch năm 1980, chúng tôi lại có cơ hội thực hiện một buổi sinh hoạt tại buồng ở khá nhộn nhịp và tuần tự kể hết những tội ác của Trại như: - Đàn áp tù, đánh đập, trù dập, bỏ đói khát, đau ốm bệnh tật v.v.. trình tâu hết lên Ngọc Hoàng Thượng Đế!


- Chỉ còn 7 ngày nửa là đón giao thừa Tết Tân Dậu năm 1981, các trại tù miền Bắc lần lượt chuyển về Nam không hẹn mà gặp anh em tù trong Nam, sau ngày quê hương bị thống trị bởi CS, tù trong Nam hầu hết là giới trẻ, sinh viên học sinh, công tư chức và các bô lão có tiền của bọn CS gọi là Tư sản mại bản v.v.. Người người đều cảm nhận thiếu mấtTự Do, thiếu mất điều gì mà từ trước họ được sống nay không còn nữa!. Tù biệt xứ nay trở về gặp lại đủ các thành phần trong xã hội cũ, mang cùng tâm trạng thương đau, vô bờ bến!.


-“Cảnh chim lồng cá chậu biết thuở nào ra”?! Trại C đang nhốt khoảng 1800 tù nhân, lợi dụng thời gian và không gian lễ hội Tết sắp đến, anh em hăng say kết nối nhau trong âm thầm quyết liệt. Theo chương trình ngày mùng 1 Tết, khu A, B, C đề cử anh em thăm viếng lẫn nhau và chúc Tết vào buổi sáng. Ánh sáng ban mai lung linh nhảy múa tràn vào từng dãy buồng tù đang trú ngụ như an ủi và cùng chia sẻ sự vui mừng qua những lời chúc tụng nhau:

- Mau sớm có ngày trở về.

- Đả đảo chính sách hà khắc đối với tù chính trị

-Đả đảo CS

- Hẹn ngày gặp nhau tại.. (Một số tin tức khả tín, Bà Khúc Minh Thư đang vận động Mỹ thu nhận tù.)

Qua mùng 2 Tết, đúng giờ G khoảng 3 PM, khu A dàn cảnh bày tiệc trà cùng nhau vui Tết để có dịp đánh 4 tên trật tự và ăng ten, kết quả biến động lan truyền nhanh khắp khu B, C toàn trại. Ban chỉ huy Trại báo động, lập tức điều động công an trấn áp tù khu A để giải cứu mấy tên tay sai.

Trong khi công an vào đàn áp tù, không may anh Tân vì quá hăng say đánh lũ người nối giáo giặc chưa thoát khỏi vòng ẩu đả, công an ào tới bắt gặp anh Tân đang dùng cây đánh những tên gian ác phản bội. Anh Tân bị công an vây bắt và đánh túi bụi vào mặt mày thân xác máu me đầy người, chúng bắt anh Tân bỏ vào bao bố kéo ra khỏi trại đánh hội đồng liên tu bất tận! Hiện trường lúc này khá sôi động, khu A, B, C đều ra khỏi nhà đồng hô to:

- Không được đánh tù chính trị.

- Yêu cầu trả anh Tân về Trại.

- Tất cả 3 khu, tù nhân đồng la, thét, vang dậy một góc trời. Tin tức truyền tải từ khu A, qua B, rồi đến C; nối nhau như cơn bão trong lòng nhịp nhàng và không bao giờ muốn dứt!. Không khí sôi động, tiếng la, tiếng thét toàn trại hơn 1800 con người cùng một lúc trong rừng sâu tăm tối, trong ngục tù CS, chưa bao giờ xảy ra , nay các bạn tù đồng đứng dậy nói lên một ý chí sắt đá, một tinh thần bất khuất , kiên cường và không bao giờ chịu khuất phục!

Mỗi khắc, giờ trôi qua, sự biến động có thể xảy ra những biến cố hệ trọng hơn; Công an tăng cường càng lúc càng đông, súng ống sẵn sàng chĩa vào lưng tù, chúng áp đảo tù khu A, rồi lần lượt khu B vào nhà khóa chặt cửa. Nay chỉ còn khu C bên ngoài khoảng 400 người, nhất quyết lấy hàng rào chắn ngang giữa khung B và C, làm điểm tựa vừa kín đáo che khuất, vừa che chở nhau.

Mặt trời buông dần xuống, anh em vẫn hiên ngang tiếp tục cuộc đấu tranh và hô to các khẩu hiệu :

- Không được đánh tù chính trị.

- Không đánh đập anh Tân.

- Phải thả anh Tân trở về trại.

- Đừng nghe những gì CS nói, hãy nhìn những gì CS làm.(Lời Tồng Thống Nguyễn văn Thiệu)

- Nơi nào có đàn áp, nơi đó có nỗi dậy.( Karl – Marx)

- Đả đảo CS.

Đồng loạt vỗ tay và liên tục hát bài ca ViệtNam – ViệtNam.

Cuộc đấu tranh hôm nay, quả thật “Cá nằm trên thớt ”, dù có vùng vẫy rồi cũng bị sức mẻ gãy gọng. Sau 3 ngày thức trắng đêm hao mòn biết bao tâm huyết để rồi Ban Quản Lý trại, biệt tách hơn 52 chiến sĩ nhiệt tình, không khiếp sợ nhận lấy đau thương, chuyển hết về Chí Hòa rồi đày ải vào đội Trừng giới thuộc tỉnh Phú Khánh. Sau này theo tin tức được biết Thiếu tá Lê Danh Chấp gục ngã trong những ngày trừng phạt tại Trại Xuân Phước. Chúng tôi quá xúc động vì mất một người bạn kiên cường anh dũng bất chấp sự trả thù tàn bạo của CS. Thiếu tá Chấp chết đi đã để lại cho các bạn tù trại Z 30D một niềm thương tiếc vô cùng xót xa, anh vừa can trường vừa hăng say luôn kích động mọi người cùng đứng dậy hô to các khẩu hiệu suốt đêm và đến cả ngày hôm sau mùng ba Tết, anh là người hùng trong đêm nỗi dậy cho đến bây giờ anh em vẫn thương nhớ và biết ơn anh.

RỪNG LÁ NỖI DẬY

Rừng Lá,

Tiếng thét đêm nay nghe dễ sợ
Tiếng rú đêm nay nghe rợn người
Rừng Lá âm u, đây Rừng Lá
Bừng dậy đêm nay trời sáng sao !.

Rừng Lá,

Đêm nay ta gào! Đêm nay ta thét!
LàoKay – YênBái – SơnLa
HàNamNinh – VĩnhPhú – PhongQuang..
Nghĩa địa vùi xác tù vội vả
Z 30D nghiệt ngã trăm bề gớm ghê!

Rừng Lá,

Tiếng rú đêm nay nghe dễ sợ
Tiếng thét đêm nay quá kinh hoàng
Rừng Lá âm u, đây Rừng Lá
Bừng dậy đêm nay trời xót xa.

Rừng Lá,
Đêm nay ta hát cho nhau nghe
Bài ca uất nghẹn
Bài ca hận thù máu chảy
Và nhửng bài ca trong ngục tối!

Đêm ngục tù không chăn không chiếu
Chân xích xiềng buốt giá đêm thâu
Xích xiềng nào xé nát tim ta
Lửa hận thù bốc cao bùng cháy!

Quân cộng thù phá nát quê hương
Bao năm dài bóp chết dân đen
Vì Tự Do ta tìm cuộc sống
Vì Tự Do ta phá bỏ chim lồng

Ôi Việt Nam trại tù khắp nẻo
Rừng Việt Bắc lắm anh hùng bỏ thây
Ôi từng cây! Sốt rét rừng xô ngã
Da bọc xương khiếp cảnh lưu đày

Đêm nay ta hát cho nhau nghe
Bài ca uất nghẹn, khiếp cảnh lưu đày!


Sau ngày nỗi dậy, Ban Chỉ Huy Trại càng khép chặt cổng tù, càng theo dõi gắt gao từng hành động tù nhân. Sau 2 tháng, một buổi sáng toàn trại tập trung nhận lệnh đi lao động. Đột nhiên Ban Chỉ Huy Trại gọi tôi ra trước sân tập họp và đọc Lệnh phạt với lời lẽ : Chây lười lao động. Ngay lập tức hai tên trật tự áp giải tôi về phòng kiên giam, theo sau có 2 tên võ trang cầm súng. Vừa vào phòng giam, có sẵn tấm váng bề rộng khoảng 6 tấc, bề dài vừa đủ chiều cao tầm người; tấm váng kê cao bởi 2 con ngựa cách mặt đất khoảng 1 thước, người tù bắt nằm dài, thẳng 2 chân xỏ vào 2 còng sắt tròn vừa sát cùm chân; treo tòn teng bởi cây sắt nằm ngang có 2 trụ cột gắn chặt chôn sâu dưới đất. Thế là suốt ngày đêm 2 còng sắt dính sát 2 mắt cá cổ chân, khi ăn uống, tiểu tiện, đại tiện đều nằm ngồi tại chỗ.


TIẾNG GÀO GIỮA ĐÊM KHUYA

Làm sao sống lại ngày mai
Làm sao quên hết những đêm dài
Âm u một cõi lòng nức nở
Trắng tay gối đầu sầu khôn nguôi!

Đêm nay một mình, một phản, đôi cùm sắt
Lưng mỏi loai hoay sột soạt hoài
Tiếng còng khua động ác đêm lạnh
Oan trái nợ đời dễ ai quên

Phòng giam khóa chặt đầy bóng tối
Hiu hắt bao thu lạnh tứ bề
Rằng đây có phải là địa ngục
Ta gào! Ta thét ! giữa đêm khuya!

Tiếng gào còn vang mãi trong sa mạc
Tiếng thét căm hờn vọng lại từ xa
Bao nhiêu năm lưu đày khốn khổ
Bấy nhiêu năm bít lối đường về


Giờ đây lại nằm chân co chân duỗi
Thôi thúc thân tù hành hạ đắng cay
Dù phải hy sinh nơi cửa ngục nầy
Vẫn bền chí quyết một lòng bất khuất

Vẫn tin tưởng có ngày sáng lạn
Đập gông cùm phá xiềng xích dã man
Diệt hung nô thời đại bạo tàn
Làm sạch cỏ nhổ từng tên đầu sỏ

Ta sẽ về, ta sẽ trở về
Vượt Mây Tào núi dài rừng sâu
Biển Hàm Tân cát bay rát mặt
Thoát nơi này ra hẳn tối tăm .

Làm sao biết được ngày mai
Làm sao biết được đường dài
Sông kia có khúc người có lúc
Dòng đời thay đổi dễ ai hay

Làm sao biết được ngày mai
Làm sao quên hết những đêm dài
Đã mấy mùa rung trống xông trận
Chờ ngày phục hận sẽ ra tay.


Sau một tháng cùm siết chặt 2 cổ chân, tôi được thả ra, đi đứng không vững, tất cả trời đất như quay cuồn rồi ngã gục trên đường về trại. Từ Bắc trở lại Nam còn bộ xương khô, nay chỉ tội: Chây lười lao động mà cùm 2 chân không cử động nổi. Thật đáng thương cho số phận làm tù..


Thuở xưa, giữa hai nước có chiến tranh, sau khi chấm dứt kẻ thắng đối xử người tù vẫn coi quí trọng thân thể họ, xem kẻ thù như tình đồng loại, cho ăn uống đầy đủ, đau ốm có thuốc men điều trị, ngày thả ra còn may cho cả áo quần v.v.. Nay CSViệt Nam đã đánh mất hết bản tính con người thuần túy Việt Nam, cùng Chung một Giống Nòi; họ không còn nghĩ đến Tình Huynh Đệ, Nghĩa Đồng Bào; rồi mặc tình đày đọa hằng triệu người miền Nam tại các trại tù, lâu dài 5,10,15,17, 20 năm trời lao đao, lận đận, tả tơi đến khốn cùng. Giết dần 30 triệu mầm sống của nửa Dân Tộc tại miền Nam! Vì vậy cho đến ngày nay sau - 32 năm cưởng chiếm miền Nam; CSViệt Nam chỉ có ha hê say men trên chiến thắng, chỉ biết vơ vét đầy túi tham; tham ô, tham nhũng lấy của cải tài sản của dân cùng âm mưu ăn cắp đục khoét của công làm của hương hỏa cho đời sống riêng tư tăm tối của chúng. Sau thời gian dài, chẳng xây dựng được gì cho đất nước, chỉ là con số không! Cả Dân tộc ViệtNam ngày nay hơn 80 triệu người đang quằn quại sống trong cảnh thiếu thốn, nghèo đói dốt nát. Sau bao nhiêu năm dài trọn quyền cai trị, thế mà nước Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới! Tại sao?! Vì CS Vietnam cướp hết quyền Tự do, Dân chủ, v. v.. để độc quyền toàn trị. Từ đó không có tiếng nói khác, không một đảng phái đối lập góp chính kiến xây dựng xã hội, vậy biết bao giờ Nước Việt Nam mới tiến bước kịp các nước bạn trên thế giới. Than ôi!

Huy Vân

============================
====================================

TẢN MẠN QUA 16 NĂM SỐNG TRÊN ĐẤT MỸ
Saturday, 23. August 2008, 04:52:04

Huy Vân.

Thời gian vụt qua như tên bay, như vó ngựa, như bóng câu - Mới ngày nào cả gia đình chân ướt, chân ráo vừa thoát cảnh tù trong, tù ngoài tại VN. Rời VN qua chương trình HO thứ 14 – Vào nước Mỹ cuối tháng 12 năm 1992, cả gia đình gồm hai vợ chồng thêm 6 đứa con còn độc thân đều trên tuổi 18. Đây là điều may mắn vô cùng - Tạ ơn Chúa và nước Mỹ cứu gia đình tôi vừa thoát cảnh đen tối nhất trong cuộc đờị. Qua mười năm: tù, tội, đói, khát bao nhiêu thứ tội vạ đó nói lên sự xác xơ con người không còn là người, ngay cả thân bằng quyến thuộc khi gặp nhau họ cũng ngoảnh mặt làm ngơ !

Đặt chân lên đất Mỹ mới đó mà 16 năm trôi qua thật nhanh, cả một trời mở rộng thênh thang, như chim xổ lồng; gặp lại bạn bè cũ, mừng vui khôn xiết. Theo kế hoạch đầu tiên, chương trình ấn định học ESL tại Cambosdian Family School, Santa Ana. Ngày ngày cố gắng học hành, trong lúc theo học ESL nhà Trường khuyên con em nếu công ty cần người – cứ nạp đơn xin đi làm. Vừa làm vừa học. Ở VN sống trong cảnh nghèo đói quá lâu, nay có dịp vừa học vừa làm thì quá ân sủng. Do đó các con tôi làm, vừa học lo cho tương lại.. Nhưng đây là dấu hiệu thất bại trong việc học hành. Rút kinh nghiệm các em nào đi học chuyên sẽ đổ đạt đàng hoàn đúng là ở Mỹ. Có học là có thành công. Một khung trời tiến bộ. Một chân trời khoa học sẵn sàng mở rộng cho những người ham học.

Riêng tôi lê gót thêm 3 năm tại Trường Golden West College, vừa học English vừa đi ngành Computer. Đang nửa chừng học hành, các con ngày càng khôn lớn lại lo dựng vợ gã chồng; nên nghỉ học ở nhà phụ giúp cho con, cháu. Nay vừa đúng tuổi hưởng hưu, nhờ có chút hiểu biết computer, giai đoạn này Hội Thân Hữu Ninh Thuận đã hoạt động hơn 9 năm, gặp lại bạn bè PhanRang. PhanRang là nơi tôi sống 7 năm sau cùng liên tiếp cho đến ngày mất nước. Công sức, gồm cả máu và nước mắt quyện nhau luôn khắc ghi vào tim gan cùng chan hòa với bạn bè, với em út ở các đơn vị; trong đó tôi nhớ lại bạn Bùi hữu Kiệt, bạn Trần công Triệt, là những người lúc nào cũng hết lòng vì nhiệm vụ. Các anh xứng đáng những người trai thế hệ hiên ngang, hùng dũng xuất thân từ Trường Võ Bị Đà Lạt đã hiến dâng thân mình cho Tổ Quốc. Và tôi cũng từng sống và hiểu biết nhiều bạn hữu.. không thể nêu lên hết nơi đây, tình người PhanRang như anh em một nhà.

Lúc bấy giờ Hội Thân Hữu Ninh Thuận, ngày càng thêm đông đồng hương hội nhập về Cali liên tục; các anh Hội trưởng ai cũng muốn có một Đặc San ít nhất một năm ra 1 lần. Chính tôi là người không ngần ngại giúp cho các anh tiền nhiệm như anh Bảo, anh Đáng là những anh đương Quyền Hội Trưởng phụ giúp Layout tờ Đặc San kể cả đóng góp bài vở và hướng dẫn về kỷ thuật. Nhờ đó sau này khắp nơi, tờ Đặc San Ninh Thuận tung bay khắp các nẻo đường trên các Tiểu Bang Hoa Kỳ và các nước khác để thắt chặt tình thân hữu. Đây là việc làm có ý nghĩa và tôi rất vui mừng đã chia sẻ cùng các bạn bè PhanRang.

Nhưng việc làm không suôn sẻ như mong đợị. Hầu hết các Hội Thân Hữu, các Đoàn thể kể cả tổ chức lớn là Cộng Đồng người Việt tại Hoa Kỳ thường gặp phải những trở ngại như nhau:

- Nội quy lập không rõ ràng.

- Chi tiết tổ chức không đầy đủ.

- Bản Nội qui không thảo luận công khai, phổ biến chỉ hạn chế.

- Quyền hành và trách nhiệm ấn định cho từng người không minh bạch.

- Lắm khi thành viên chỉ là người cùng phe cánh. Do đó dễ lung lạc – làm sai kế họach.

Rất tiếc bản thân Hội nhà Ninh Thuận gần đây đã trải qua thời kỳ dao động có những lúc không vui ! Xin các anh có trách nhiệm chia sẻ đóng góp ý kiến cùng nhau đưa Hội ngày thêm hoàn hảo hơn. Phải nhớ rằng Hội là dây liên lạc – là nơi chia sẻ giữa những người tị nạn cộng sản. Ông Hội Trưởng là người phải có tinh thần chống cộng. Phải làm gương tốt cho Hội.

Hiện nay anh Hội Trưởng Ất cũng chẳng xa lạ, anh cũng từng phục vụ trong Chiến Đoàn 1 Điạ Phương PhanRang, trong lúc tôi điều hành Chiến đoàn. Tôi còn nhớ rõ. Lúc gia đình vừa đến Orange County, Cali. Hai ông bà Ất đã đến an ủi viếng thăm, chúng tôi cả gia đình rất xúc động. Riêng tôi cảm kích vô cùng và không bao giờ quên nghĩa cử đẹp của ông bà.

Cần nói thêm lúc đổi về Ninh Thuận, tôi gặp Trung tá T, đàn anh trước tôi một khóa, anh cởi mở vui tính, xì xoà mọi việc; tôi từng ở đơn vị Sư đoàn 5 BB, sau khi bị thương tích được chuyển về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp thời gian ở đây cũng khá lâu. Sau này, tôi xin về PhanRang gần nhà. Tỉnh Ninh Thuận là gốc rễ cội nguồn của vị Tổng Thống đương nhiệm, lúc làm việc xa đã nghe danh Ninh Thuận. Làm việc nơi đây không phải dễ, trong đơn vị chưa hẳn những người dưới quyền họ lúc nào cũng tuân phục. Vậy hãy coi chừng và đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra trong khi thi hành công vụ. Tôi cũng thường bị khiển trách bị phạt nhiều lần, vì lúc nào cũng muốn làm vừa lòng bạn bè. Phải nói là Trung tá T cũng là người hiền lành luôn giúp đỡ anh em, khi cần nếu anh có phương tiện, có cơ hội giúp ngay. Vì vậy anh có nhiều đàn em, kể cả bạn bè, anh luôn thể hiện người tốt, hiền lành. Tuy nhiên vì hiền là bẩm tính, nên việc làng nước nhiều khi anh gặp những chuyện không phải anh làm lại mang tiếng. Cũng vì thừa tính dễ dãi, nên đàn em nhiều lúc đã lợi dụng anh, có một thời anh nặng vì tình nhẹ vì lý, nên anh em ít gần gủi ...

Nói đến tỉnh Ninh Thuận là phải nhắc đến Ông Đại Tá Trần văn Tự, vị đầu tỉnh có tiếng thanh liêm chính trực, kế hoạch chống Cs xâm nhập ấp hữu hiệu. Ông phục vụ tại tỉnh Ninh Thuận kế hoạch chống cộng sản hơn cả các vị tiền nhiệm. Mỗi lần địch xâm nhập hầu như bỏ lại xác tại trận. Tiếng tăm ông cũng vang một thời. Ông phạt tôi cũng nhiều lần và chính ông cũng đỡ tôi dậy. Vì lẽ, ông làm việc xét qua nhãn quan của người có kinh nghiệm lịch lãm, một cấp chỉ huy có tinh thần Quốc gia Dân tộc, mọi việc ông tự quyết đoán và ít khi ông nghe theo thành phần nịnh bợ..

Ninh Thuận bỏ ngõ không phải do Ông hành động – chính do kế hoạch Trung ương lệnh - Phải nói Đại Tá Tự là người chống cộng quyết liệt – vì lẽ theo tinh thần Thân sinh Ông là Cụ Trần văn Thạch cũng là người có tên tuổi đi vào lịch sử. Sau 13 năm trong ngục tù Cs – đôi khi gặp lại ông rất ôn tồn, vui vẻ nhận lấy thương đau bi thảm của đất nước!. Phục vụ dưới thời ông là điều vinh dự cho riêng cá nhân tôi; sự thưởng phạt rất công minh – không phe phái lăng nhăng – Tuy nhiên có lúc ông cũng bị mang tai tiếng .. Chắc chắn là không ai vẹn toàn trong lúc thi hành nhiệm vụ. Giờ đây ông cũng an cư thiền tịnh lo việc tu hành, cầu xin ơn trên Trời Phật độ cho ông thêm nhiều sức khỏe tu luyện sớm đạt được công quả.

Nói đến Cs ai cũng chán ghét, nhiều lúc bà con không còn muốn nhắc đến Cs làm gì ! Bởi hiện nay xa xứ lo làm ăn, lo tương lai con cháu .. Người mình cũng dễ quên; nhưng đừng khêu gợi chọc giận họ. Tôì còn nhớ tại Vùng Little Saigon, trong khu chợ Bolsa cũ, có tên Trần Trường điên điên khùng khùng, mang hình Hồ tặc, và cờ máu trang hoàng trong cửa hiệu của anh với bàn thờ có đủ hình ảnh cờ xí chọc giận bà con khi đi chợ qua cửa hiệu anh, ngạc nhiên mọi người đều dừng chân đứng lại. Phản ứng của đồng bào là không chấp nhận tên tay sai Cs nằm vùng đang khiêu khích người dân tị nạn, bởi tên Hồ chí Minh vọng ngoại mang cả bảng hiệu CS Quốc tế làm tay sai cho Nga – Tàu đọa đày cả Dân tộc VN cho đến nay là trên 60 năm dài !!. Những người dân tị nạn CS, mỗi gia đình người nào cũng có người chết trong ngục tù, trong ám hại, trong bức tử, trong cuộc chiến v.v.. Dân vùng Little Saigon, kể cả các vùng phụ cận, thay nhau ngày đêm đều có mặt tại hiện trường chống hình Hồ tặc, và cờ máu liên tiếp 53 ngày đêm lúc nào cũng có nhiều đồng hương tham dự. Đủ các thành phần ông già, bà cả, thanh thiếu niên, nam nữ đông nghẹt người. Cuộc biểu giương tinh thần chống cộng cao độ có đêm gay cấn số người tràn ngập các lối đi trên các trục lộ hướng về Chợ Bolsa nhộn nhịp như sắp có những trận chiến sắp sảy ra. Thật khó diễn tả nào hơn là lòng căm hờn của toàn dân tị nạn, không tha thứ hành động Trần Trường đang làm tay sai Cs. Sau cùng chính quyền địa phương đã giải quyết bằng cách khám phá cơ sở kinh doanh này làm ăn bất chính sang băng lậu !

Bài thơ sau đây diễn tả không khí trong các ngày tranh đấu trên phố Bolsa:

Bolsa bừng dậy

Bolsa nắng ấm, đẹp, mờ sương khói

Đông về gió lạnh buốt tim ai ?

Nơi đây máu chảy hòa lệ nhỏ

Xé cờ đỏ, giẫm nát mặt Hồ

Bolsa lửa đốt lòng căm giận

Già trẻ nối nhau, siết chặt tay

Đứng lên chen nhau cùng diệt cộng

Cờ vàng ba sọc đỏ phơi phới bay ..

Nói thêm về Cộng Đồng, dân cư ngụ ở đâu cũng muốn có một Cộng Đồng vững mạnh sẵn sàng đáp ứng hoàn cảnh của địa phương để giúp dân mình tồn tại lâu dài và song hành phát triển cùng dân điạ phương và xa hơn nữa là giúp nước nhà sớm dứt cảnh độc quyền cai trị cuả Cs. Ấy thế đã 33 – 34 năm trời, qua bao nhiêu lần sinh hoạt, qua bao lần tranh đấu gay go vẫn thất bại để có một Cộng Đồng Thống Nhất ổn định điều hành chung mọi việc. Thê thảm thay! Tại Nam Cali có lúc đến 3 Cộng Đồng sinh hoạt. Người dân không còn xem các ông bà ấy kí lô nào cả ! Bởi họ phản lại Dân Chủ - Phản lại tập thể Cộng Đồng. Người dân không còn tin tưởng Cộng Đồng, về sau này có những việc khẩn cấp – cần giải quyết vấn đề quan trọng – nhờ các anh tự nguyện đứng ra kết đoàn tạo một không khí lành mạnh dấn thân đảm trách mọi việc. Ví dụ: -Tổ chức chống nghị quyết 36 vc, chống tuần báo ViệtWeekly những tên tay sai Cs luồn lách trong Cộng Đồng đánh phá HO, đăng bài ca tụng chế độ Cộng sản; phỏng vấn đặc biệt những tên chóp bu Cộng sản như: - Võ văn Kiệt, những tên Lãnh sự quán v.v.. Họ đánh bóng cho giặc không khác nào tự nguyện làm tay sai cho giặc !.

.Thất bại này dẫn đến thất bại khác, đối với chính quyền địa phương họ xem Cộng Đồng như những anh hề để dùng những lúc tổ chức các mùa tranh cử, giúp họ kiếm phiếu, hoặc tổ chức vui mừng các ngày lễ hội; riêng các việc làm quan trong khác không được dự phần, vì CĐ không đủ tư cách. Có câu chuyện đã xảy ra rất mỉa mai. Có dạo nọ, chính quyền địa phương mời tất cả các Cộng Đồng người thiểu số tham dự sinh hoạt gì đó ?. Riêng CĐVN không được mời. Sự việc chính quyền địa phương xem thường Cộng Đồng, không có tính công bằng đối với các Cộng Đồng khác như: Trung Hoa, Nhựt Bổn, Mễ, ĐạiHàn, v.v.. Thế thì các ông bà trong CĐ ta hờn giận dẫn nhau khiếu nại, trách móc đủ điều.. Cuối cùng họ giải đáp rằng: - Lý do các ông không được dự phần vì không biết phải chọn trong 3 CĐ bằng cách nào để có một CĐ chính thức như các CĐ khác !. Thấy tội nghiệp cho các ông bà quá ngu ngơ, quá tham lam làm những việc không còn xứng đáng có chút tinh thần trách nhiệm nào cả !Bài học này chắc các ông bà đã học kỹ, vậy xin đề nghị cả ba CĐ bằng cách nào sớm nhất.

Ngồi lại bàn bạc và nên xóa bỏ làm lại, sau khi hội, nếu CĐ nào còn ngoan cố không chịu xóa bàn làm lại, chúng ta phải quyết liệt chống đến cùng - Bằng nhiều hình thức như biểu tình đứng trước cơ sở họ, từ 5 – 10 người không cần nhiều, phản đối cho đến khi gỡ bảng hiệu mới thôi. Ta có thể lấy điển hình các cuộc biểu tình gần đây như các anh Ngô Kỷ - Đoàn Trọng - Trần thế Cung và nhiều đồng hương thường tham dự chống Nhật Báo Người Việt. Nó có tác động rất lớn làm cho họ phải nhức đầu tê tái ê chề . .

Chống nhật báo Người Việt là việc làm khó. Lý do họ là cơ sở truyền thông tiếng nói khá lâu trong CĐ. Họ có tài chánh, có nhân lực hùng hậu, đóng góp nhiều công tác truyền thông trong CĐ. Tuy nhiên gần đây họ có những sai phạm làm người dân khó hiểu?. Như xưa kia chính phủ VNCH cũng có những sai phạm đến nổi chống đỡ không hữu hiệu kế hoạch phản tình báo của địch. Nào Huỳnh văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ v.v.. đã nằm tận trong Phủ Tổng Thống. Các sĩ quan phản tình báo của ta rất giỏi mới diệt được thành phần nguy hiểm này. Đối với Nhật Báo Người Việt, họ cũng khôn ngoan kín đáo, thỉnh thoảng họ nhấp thử một sự việc như vô tình, như vô tội vạ; nếu đồng hương phản đối, họ có thể nói đó là nhầm lẫn về mặt kỷ thuật – Nhưng nhiều lần cũng làm cho đồng hương có ấn tượng xấu, không chấp nhận sự sơ xuất lỗi lầm mà họ bào chữa. Nhất là sau nầy ông Đỗ ngọc Yến đã chết rồì – thì những người đang thừa hành họ cũng không ngại gì đổ hết tội lỗi đó cho người chết..

Theo tin tức đoàn biểu tình còn tiếp tục biểu tình, có luật sư đứng ra chống lại bên báo Người Việt kiện đoàn biểu tình và báo Người Việt kiện đích danh anh Ngô Kỷ, anh Đoàn Trọng, anh Trần thế Cung. Việc này chắc còn dài, khó mà quyết đoán ai thắng ai thua ? Nếu còn kéo dài dài thì bên có sẵn tiền tài; chắc là mỗi ngày họ sẽ kéo thêm người ủng hộ. Như gần đây báo Người Việt tổ chức mời gọi đồng hương xem TV, các cuộc tranh giải thể thao quốc tế mục đích thêm người hổ trợ. Rồi có người đã đứng ra cãi vã và muốn xô xát, muốn dùng cả xe tung vào đoàn biểu tình. Và người ta lại thấy rất rõ như Trung tá Phạm đình Cung có gửi thư ngỏ đến các hệ thống truyền thông báo chí chê trách đoàn biểu tình. Anh lại đòi cất dẹp bàn thờ của đoàn biểu tình.

Thưa ông Trung tá Phạm đình Cung,Ông Ngô Kỷ - Đoàn Trọng - Trần thế Cung và đoàn biểu tình không ngu dại dùng bàn thờ các Tướng lãnh tuẫn tiết trang trí như chậu rửa chân của báo Người Việt đã từng làm đâu!. Đoàn biểu tình hằng ngày thờ phượng các Tướng lãnh để nung nấu ý chí phục thù, quật khởi - sẵn sàng chống bọn Cs nằm vùng đang xâm nhập chống phá CĐ; chính NQ 36 của Vc, đang đổ thêm tiền bạc, thêm người cài vào CĐ để làm rối loạn CĐ, phá nát CĐ bằng tiền bạc, bằng thêm người ngu dại chạy theo lợi nhuận. Trung tá Cung nhớ rằng sau lưng đoàn biểu tình là gần 200 đoàn thể, đảng phái lớn nhỏ có đủ cấp bậc trong QĐ chắc là lớn hơn ông nhiều, và họ ở tù lúc nào cũng giữ thể diện liêm sĩ – không phải như Trung tá Cung – lúc nghiêng bên này lúc ngã bên kia !. Hành động của Trung tá chẳng khác như con quạ đi khập khiễng. Trung tá Cung cứ hỏi những anh em ở trại Z30D ai mà không biết Trung tá ?! Trung tá Cung có quyền ủng hộ báo Người Việt không ai cấm đoán. Tuy nhiên ông đừng nghe báo Người Việt nói, mà chỉ nhìn số hình ảnh ông Yến là cả nhóm họ cũng náo động hết chối cãi rồi ! Mong lắm thay !

Trong thời gian 16 năm sống trên đất Mỹ, thật ra có nhiều chuyện quan trọng xảy ra, nhưng đối với tôi là người thuộc nhóm thầm lặng, chỉ nói lên những điều mắt thấy tai nghe – Mong rằng tiếng nói này cũng phản ảnh chung số vấn đề bà con thường lưu tâm trong CĐ - Mục đích muốn CĐ ngày một tiến bộ. Và nếu có va chạm đến ai, tôi cũng thành thật xin lỗi.

Huy Vân



=====================

=====================================

VĂN TẾ CHIẾN SỸ TRẬN VONG

VĂN TẾ CHIẾN SỸ TRẬN VONG


….Hỡi ơi!

Vận nước điêu linh, sông buồn núi thảm,

Cơ trời ảm đạm, đất lạnh người sầu!

Mấy cuộc bể dâu , rầu rầu ly loạn,

Bao lằn tên đạn, lớp lớp xung phong…

Vị quốc thân vong, anh hùng tử sĩ !

Nghìn thu vạn kỷ, Tổ Quốc ghi danh,

Hồn phách hiển linh, về đây chứng giám…

Nhớ những linh xưa…bao mùa ly loạn,

Gối đất nằm sương…Chiến trường u hiểm !

Đánh giặc ngày đêm, giữ gìn non biển,

Giữ gìn từng tấc đất ông cha,

Chính các anh…những người lính Cộng Hòa…

Đem máu đỏ thắm tô cờ Tổ Quốc !

Chính các anh…xuất thân từ những nhà nông, tay cày tay cuốc…

Hoặc thư sinh vừa rời ghế học đường !

Đấng trượng phu… chí tại bốn phương,

Câu hồ thỉ…tung hê cho thỏa !

Rồi một sáng đầu Xuân, hay một chiều cuối Hạ,

Lòng quyết lòng…lo trả nợ nam nhi,

“ Giã nhà mang lấy chiến y,

Súng cầm tay…quyết một đi diệt thù !”

Các chị nữa…thân liễu bồ mảnh dẻ,

Nước lầm than…hồ dễ làm ngơ?

Cùng chung sống dưới màu cờ,

Gái trai đều phải chung lo diệt thù !

Ôi ! Chiến trận, mịt mù lữa khói,

Pháo từng bầy, may rủi đường tơ!

“ Phải đành xác bọc poncho,

Phải đành vùi dưới nấm mồ…rừng sâu?”

Nhớ những linh xưa…nhìn đất não trời sầu

Tháng Tư đó…ôi miền Nam sụp đổ…

Chính các anh…dù trong mạt lộ…

Vẫn bền gan…chiến đấu đến tàn hơi…

Nhớ những linh xưa…hồn dũng tướng sáng ngời…

Nào những: Nguyễn Khoa Nam . Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng,

Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ… thà tự sát để giữ tròn danh tiết…

Và còn nữa …những oan hồn thê thiết,

Chết trong tù cải tạo lắm tang thương !

Hay chết giữa rừng sâu, chết vượt biển tìm đường,

Ôi cái giá tự do…phải trả bằng trăm điều oan nghiệt,

Ôi càng nghĩ…lòng đau thương thống thiết…

Giặc Đỏ chiếm miền Nam, đào xới mả mồ !

Khinh Phật Trời, theo ngụy thuyết Tam Vô,

Trả thù cả với xương người Tử Sĩ !

Dâng Đất Biển Rồng Tiên…cho Tàu Đỏ Bắc Phương !

“Ải Nam Quan ! Ôi Ải Nam Quan !

Bán rồi ! Đứt ruột ! Dân Nam lệ nhòa !”

Đất biển đó, Ông Cha tạo dựng,

Bốn ngàn năm…giữ vững giang sơn !

“ Giờ đây đất biển căm hờn…

vì quân Hồ Cộng, bán hồn Tổ Tiên !”

Hởi Tử Sĩ ! …Hồn linh thiêng có biết ?

Nơi xứ người thê thiết phận tàn binh !

Chúng tôi đây, giờ bóng đã xế mành…

Từng bật khóc nhiều phen…cho cơ đồ bị mất,

Từng bật khóc nhiều phen…nhớ bao người đã khuất…

Mà hồn vật vờ, phách cũng tang thương !

Xin hãy về đây trong màu khói trầm hương…

Kìa…hồn linh hiển…như chập chờn hiển hiện,

Cùng với chúng tôi…Những người lính già tạm cư đời dâu biển,

Rũ chinh y…buồn với cuộc phong ba !

Ta cùng nhau thông cảm lệ nhòa,

Chia xẻ nỗi đắng cay… nhiều tủi nhục !…

Hồn hỡi hồn ơi !…Thôi thì thôi…dòng đời luôn có khúc,

Khi gập ghềnh, khi bình lặng, lúc gian truân,

Miễn kẻ còn đây, với kẻ chết chẳng chia phân….

Cùng hoà nhập theo mối thù vong quốc !

Tin tưởng một ngày mai, xoay chiều thế cuộc,

Chính nghĩa thắng hung tàn…Xin hồn hãy an tâm !…

Rượu thịt nơi đây…tuy cũng nhuốm phong trần,

Vì xứ khác, khác vị mùi của quê ta đó !

Nhưng với tấm lòng thành, người cùng chung đất Tổ,

Tưởng niệm người vị quốc vong thân !

Hãy về đây…theo khói tỏa hương trầm…

Xin thượng hưởng ! Hồn ơi xin thượng hưởng ! !



NHẬT-HỒNG



(Thi sĩ cựu Thiếu Tá Biệt Động Quân Nguyễn Thanh Vân)



Nguyễn Mạnh Trinh

Ô hô!
Xưa, truyền tụng bài Điếu Cổ Chiến Trường Văn, lời Lý Hoa
đã dãi dầu cùng thiên cổ.
Nay, đọc lại Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc, tiếng Đồ Chiểu còn sang sảng với non sông.
Than ôi
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, trung nghĩa đài lửa thắp nhớ người xưa.
Đất linh thiêng vùi chôn thân xác, đàn trận vong lời vẳng tận thiên thu.
Vận nước đến thời
Anh hùng mạt vận
Hai mươi năm xây đắp quốc gia, ngăn sóng đỏ, cầm gươm giữ nước
Một thế kỷ lầm than dân tộc, xót thế thời, đứng dậy dưới cờ.
Tháng tư đen, bỗng tình cảnh xảy đàn tan nghé
Ất mão buồn, chợt tang thương tan cửa nát nhà
Phe Cộng hung hăng, đằng sau Nga Tàu tận tình chi viện, xe tăng súng lớn thừa thãi ê hề, đạn vung vãi tối trời mù đất
Phía ta thế thủ, mặt trước đồng minh buông tay không giúp, máy bay tàu thủy thiếu thốn xăng dầu, pháo nhỏ giọt làm sao chiến thắng.
Muốn tận tình tranh đấu, mà ai xui bỏ đất bỏ dân.
Thích xông thành đụt pháo, ngỡ mình đang giữ xóm giữ làng.
Cơ đồ mất, tướng quân tử tiết, sáng trưng tinh đẩu, linh hiển thành phúc thần phù hộ non sông
Chính quyền tan, dân chúng khóc than, xâm lược đã bạo tàn bắt người cướp của.
Nhớ linh xưa,
Mắt biếc môi hồng, tuổi trai trẻ dập dồn bao ước vọng
Đôi mươi xanh tóc, vào lửa binh đâu ngại chuyện tương lai
Nhập binh ngũ phận kẻ nam nhi, đời chinh khách dậm ngàn vó ngựa
Khoác nhung bào kiếp sống hào hùng, thân bách chiến xá gì sinh tử
Mùa hè đỏ lửa, ghìm tay súng giữ vững biên cương.
Mậu thân khói tỏa, vững niềm tin yên bình phố thị.
Bảo quốc trấn không, cánh chim trời dọc ngang, đi chẳng về, không trung gửi xác thân.
Đại dương vùng vẫy, kình ngư ngoài biển lớn, bỏ bến bờ, sóng dữ náu hình hài.
Nào nhảy dù, biệt động,.. trăm trận xông pha, chiến tích đã nức danh kim cổ
Nào thiết giáp, pháo binh,.. khí thế đằng đằng, sấm sét dáng lên đầu giặc dữ.
Dù chán ghét chiến chinh, nhưng vẫn phải dấn thân binh lửa.
Mặc tình đời đen bạc, mãi một lòng báo quốc trung trinh.
Trí vốn quen sách vở thư sinh, bỏ trường lớp đi vào chiến trận.
Óc chất chồng lục thao tam lược, có xá gì làn đạn mũi tên.
Ghét giặc bạo tàn, pháo kích dân lành, chẳng xót thương đồng bào ruột thịt.
Chở che bá tánh, chiến địa tung hoành, sức đoạn kình yên hàn xã tắc.
Nào ngờ đâu
Da ngựa bọc thây, chữ quy khứ đã đành về âm cảnh.
Đầu non trăng dãi, câu chiêu hồn đủ sót chốn dương gian.
Bàn cờ thua, ai cứu được giang san.
Gặp vận bĩ, liều thân cùng đất tổ.
Hỡi ơi!
Một trận tan tành,
Trời thủ đô vần vũ áng mây tang.
Muôn dân thương khó,
Đất phương nam ngơ ngác ngọn cờ hàng.
Cuối tháng tư, thế cùng lực tận, tướng trấn ải cam đành tự tận, nêu tiếng thơm để lại ngàn sau.
Đầu tháng năm, hàng ngũ vỡ tan, quân tử thủ liều tấm thân, đời anh kiệt ghi cùng sử sách.
Mặt trận Sài Gòn ngày rã ngũ, cả tiểu đội nắm tay ôm lựu đạn, sống cùng nhau và chết cũng cùng nhau.
Bản doanh Cần Thơ đêm buông súng, khắp quân đoàn lệ khóc thương tư lệnh, sinh vi tướng và tử cũng vi thần.
Bao nhiêu người gục ngã, vạn chiến sĩ vô danh tô máu sắc cờ.
Bấy nhiêu gương nghĩa dũng, muôn anh linh hiến mình vì nước hy sinh.
Thế mà
Đài tưởng niệm chỉ đành trong tâm tưởng, phận kẻ thua đâu có được đền miếu huy hoàng.
Bức tượng Tiếc Thương đem dập vùi hoang phế, khiến nhân tâm đau xót thảm thương.
Nghĩa trang Quân Đội đành rêu loang cỏ áy, xui quốc dân thống hận đoạn trường.
Ở hải ngoại, muôn lòng tưởng niệm, cuối tháng tư thắp nén nhang thơm.
Nơi lưu lạc, vạn lời thương cảm, đầu tháng năm đốt nến nhớ người. Vọng hồn trung liệt
Ly rượu nồng tựa nước mắt muôn thu
Tưởng đấng hùng tài.
Chén nước trong giống suối nguồn son tạc.
Thác chẳng cần đền miếu, sống muôn thuở lừng danh
Sống không kể gian nguy, thác ngàn năm nhang khói.
Ơi hỡi anh hùng chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Về đây chứng giám.
Hồn linh thượng hưởng.

Phú Hận Tháng Tư
Tháng Tư đất nước một màu tang
Từ buổi quê hương bóng giặc tràn
Xã tắc điêu linh đời ngục ải
Sơn hà nghiêng ngả cuộc ly tan
Phần tư thế kỷ thân lưu lạc
Hơn nửa cuộc đời giữa ngổn ngang
Mối hận tháng Tư nung nấu dạ
Phải thanh thỏa hết trước đời tàn
Tháng Tư! Tháng Tư! Tháng đen tử khí
Ất Mão! Ất Mão! Xuân trắng màu tang
Triệu triệu con người vật vả khóc than
Trăm thằng thảo khấu rú cười quái đản
Tiếng AK rờn rợn đưa người vào mê sảng
Bóng mũ cối xanh dờn dẫn nước đến tàn hoang
Đỉnh cao trí tuệ khiến toàn thế giới phải bàng hoàng
Tà thuyết mị dân đẩy cả quê hương vào mê loạn
Hàng triệu người bỏ phiếu bằng đôi chân lổ loang vết đạn
Cả dân tộc kêu gào với tiếng nói uất nghẹn lầm than




Xã tắc tiêu điều
Trăm họ ngổn ngang
Đền miếu tiên tổ hoang phế điêu tàn
Mã mồ tiền nhân xác xơ đổ nát
Từ tháng Tư đen lương dân mịt mờ trong đọa đày tù rạc
Từ Ất Mão xám kẻ sĩ điên loạn giữa lầy lội dối gian
Bắc Nam trầm thống tiếng kêu vang
Trời đất sầu vương lời oán thán




31 năm .....
Tổ quốc hôm nay ngậm ngùi trong nỗi hờn vong bản
Quê hương hiện thời khắc khoải giữa cơn lốc vô nhân
Bởi...
Bè lũ Cộng sản vẫn say men bạo ác, vẫn cai trị dân bằng xiềng xích Mác gian
Nên ..
Đồng bào Việt Nam còn ngập kiếp khổ đau, còn lết lê đời giữa gông cùm quốc nạn
Nguyệt Biều, An Truyền Hịch Quyết Chiến đã hiệu triệu rền vang
An Giang, Châu Đốc Lửa Hy Sinh đang ngời cao tỏa rạng
Tất cả đều quyết tâm diệt phường cẩu tặc
Mọi người đều nhất dạ trừ lũ sói lang
Đấu Tranh Dân Chủ, con đường chân chính của đất nước Nam đang chuyển bước nhân gian
Ngôn Luận Tự Do, tiếng nói bất khuất của nhân dân Việt đã dựng nêu nguyên đán!
Tiếng trống Mê Linh như dập dồn giờ xung trận
Câu gào Sát Thát chừng dục dã phút lên đàng
Sĩ phu Việt Nam đã đứng lên quyết lấy lại giang san
Cháu con Âu Lạc đang chổi dậy để diệt trừ Cộng đảng
Máu dẫu phải chảy thành sông nếu cần cho ngày mai tươi sáng
Xương dầu có cao như núi khi thiết để tổ quốc vinh quang
Chế độ Cộng sản bạo tàn chắc chắn phải bị tiêu tan
Chính thể Cộng Hòa nhân bản đương nhiên trở thành nền tảng
Đồng bào ơi! hãy đoàn kết diệt Cộng dựng lại Cờ Vàng
Huynh đệ ơi! hãy quyết tâm trừ gian trùng tu xã tắc
Tháng Tư! Tháng Tư! Vững tin chờ nhạc tấu khúc khải hoàn!
Non Sông! Non Sông! Yên chí đợi bản trường ca chiến thắng !
Từ Đà Thành
Văn tế tướng sĩ trận vong
Than ôi! Trời Đông Phố vận ra Sóc Cảnh [2], trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay; nước Lô hà chảy xuống Lương giang [3], nghĩ mấy kẻ điêu linh [4] những từ thuở nọ, cho hay sinh là ký mà tử là quy; mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ.
Xót thay! Tình dưới viên mao [5], phận trong giới trụ [6]. Ba nghìn họp con em đất Bái [7], cung tên ngang dọc chí nam nhi; hai trăm vây cờ cõi non Kỳ [8], cơm áo nặng dầy ơn cựu chủ.
Dấn thân cho nước, son sắt một lòng; nối nghĩa cùng thầy, tuyết sơn mấy độ.
Kẻ thời theo cơ đích [9] chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt, chỉ non Tây thề chẳng đội trời chung; kẻ thời đón việt mao [10] trở lại chốn sa cơ, dập dìu vén cánh nương vây, trông cõi Bắc quyết thu về đất cũ.
Nằm gai nếm mật [11], chung nỗi ân ưu; mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ.
Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh, Thuận [12], đã mấy buổi sơn phong hải lễ [13], trời Cao, Quang [14] soi tỏ tấm kiên trinh, rồi lai từ Đồn Bàn, Nam, Ngãi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long [15], biết bao phen vũ pháo vân thê [16], đất Lũng, Thục [17] lăn vào nơi hiểm cố.
Phận truy tùy, ngẫm lại cũng cơ duyên; trường tranh đấu biết đâu là mệnh số.
Kẻ thời chen chân ngựa quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mệnh bạc, nắm lông hồng [18] theo đạn lạc tên bay; kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa [19] mặc bèo trôi sóng vỗ.
Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc [20], mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương [21]; mặt chinh phụ khôn vẽ nét gian nan, lập lòe lửa trời, soi chừng cổ độ [22].
Ôi! Cùng lòng trung nghĩa, khác số đoản tu [23], nửa cuộc công danh, chia phần kim cổ [24].
Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài; những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu [25] xem nửa phút như không, ơn dầy đội cũng cam trong phế phủ [26].
Phận dù không gác khói đài mây [27]; danh đã dậy ngàn cây nội cỏ.
Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chả quản ngàn sương đệm giá, những chờ xem cao thấp bức cân thường [28]; tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn Vũ lộ [29].
Vâng thượng đức hồi loan [30] tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫn Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh [31] cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang; mà những người từng thượng trận ngày xưa, dắp tấu công tự ngọ, vị, thân, dậu [32] đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá số.
Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui; dịp trống dồn hoa; chốn tươi chốn ủ. Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không; nhưng tiếc cho tạo hóa khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng, phân thủy có phận chung sao không có [33].
Bản chức nay, vâng việc biên phòng, chạnh lòng niềm viễn thú. Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh; trong nhà rõ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió. Bâng khuâng kẻ khuất với người còn; tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó. Nền phủ định [34] tới đây còn xốc nỗi, vu lòng một lễ, chén rượu thoi vàng; chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ, có cảm thông thì tới đó khuyên mời; dù linh thinh hãy nghe lời dặn dỗ.
Buổi chinh chiến hoặc oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lớp dưới, khao thưởng rồi sẽ tấu biểu dương cho; hội thăng bình đừng có nghĩ rằng không, dù ai còn cha già, mẹ yếu, vợ góa, con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.
Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu [35]; hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ [36].
Cơ huyền diệu [37] hoặc thâm trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân [38]; niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề, linh thời hộ Hoàng triều cho bể lặng sóng trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo tộ [39].


Nguyễn Văn Thành

10 Ý Kiến Giữ Nước Của Một Người Việt Hải Ngoại
by Nhất Hướng



“Đi với Tàu mất nước, đi với Mỹ mất đảng”
quí vị đã chọn con đường đi với Tàu, đã dâng cho Tàu khoảng 1.000 cây số vuông đất biên giới, hơn 20.000 cây số vuông vùng biển vịnh Bắc Bộ, đảo Hoàng Sa và một phần của đảo Trường Sa v.v… Quí vị đã quên 2 điều :
1.- Lòng tham con người vô đáy.
2.- Nước mất thì nhà tan.


Đến giờ phút này quí vị mới bắt đầu hiểu được điều thứ nhất khi bọn Tàu Cộng vẫn chưa thỏa mãn những gì quí vị hiến dâng mà còn tham lam muốn chiếm hết cả Biển Đông, nhưng quí vị chưa hiểu được điều thứ 2 vì chưa từng nếm qua như chúng tôi, những người lính Miền Nam Việt Nam, đã cay đắng bao phen với nỗi niềm mất nước.
Nay chúng tôi tuổi đã già đang sống bình yên và tìm vui bên nhau với tình huynh đệ chi binh ở tận trời Tây với tấm lòng không hề hổ thẹn với non sông và con cháu, con cái chúng tôi đã hội nhập và thành danh trên miền đất lạ, chỉ có những kẻ vô ý thức trong chúng tôi mới mong áo ấm về làng hay lom khom bên cạnh quí vị để được ngồi hưởng những bữa ăn thịnh soạn bên những cặp mắt thèm thuồng của bà con lối xóm hay của đám ăn mày rách rưới vây quanh.

Quê hương Việt Nam đã xa vời vợi từ địa lý lẫn trong tâm hồn, người dân Việt Nam cũng không còn cùng chung nhịp đập với kẻ tha hương hàng chục năm và lẽ dĩ nhiên quí vị chỉ còn là những tên bán nước hèn với giặc ác với dân trong con mắt của những kẻ già xa xứ. Nhưng chúng tôi vẫn muốn có vài hàng để nói lên vài ý kiến trước tình hình đất nước lâm nguy vì không muốn 80 triệu dân Việt Nam đi vào con đường đau đớn mà quí vị đã từng dẫn chúng tôi đi qua, con đường nô lệ và mất nước.
Sau khi đi với Tàu không được tôi lại thấy quí vị đang muốn đi theo Mỹ hay dựa vào Mỹ để chống lại Tàu. Hành động này của quí vị là một hành động ngây thơ, trong một thời gian ngắn vì thế chiến lược vì mưu mô thủ đoạn và quyền lợi của Mỹ và Tàu quí vị có thể đưa đất nước thêm một lần nữa vào vòng bi thảm.

Không cần phân tích và giải thích nhiều, quí vị cũng sẽ biết rằng chính phủ Mỹ sẽ không bao giờ đem tài sản và xương máu dân Mỹ tham chiến để bảo vệ một nước cộng sản. Trái lại, họ còn mong hai nước cộng sản đánh nhau để Tàu Cộng sa lầy và họ hưởng lợi nhờ bán vũ khí cho một vùng Đông Nam Á đầy lo sợ.

Việc Tàu Cộng hai lần cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam, kêu gọi đấu thầu trong vùng lãnh hải của Việt Nam, cấm ngư dân Việt Nam đánh cá, tung hàng chục ngàn tàu đánh bắt cá trên biển đông, lập thành phố Tam Sa, đồn trú quân trên các đảo chiếm đóng v.v… là những việc đã được tính trước để thực hiện hai nước cờ :
Nước cờ thứ nhất : Tìm cho ra những tên có tư tưởng chống Tàu trong quí vị để thanh lọc thêm, biến bộ chính trị đảng cộng sản thành một ổ tình báo toàn rặt người của Tàu Cộng, dùng ổ tình báo ấy cai trị nước Việt Nam.

Nước cờ thứ hai : Thực hiện chiến thuật tằm ăn dâu, từng bước chiếm biển, chiếm đất chiếm nước và tròng vòng nô lệ vào đầu dân Việt. Tôi không bàn về nước cờ thứ nhất, dẫu có bàn cũng không thành công vì nước cờ này là nước cờ của quí vị tự xử với nhau. Tôi nghĩ quí vị cũng đã biết nước cờ này rồi nên chẳng có vị nào dám lên tiếng chống Tàu Cộng trước sự hung hăng quá lố của chúng.

Tôi chỉ xin có ý kiến với một vài người còn yêu nước trong quí vị về nước cờ thứ 2, vì khi đối phó với nước cờ này thì phải chọn một con đường đúng đắn để đi với nhiều chuẩn bị, và nếu cần phải giải quyết bằng một cuộc chiến. Thế thì con đường mà quí vị cần phải chọn để đi cho đất nước qua cơn lâm nguy là con đường như thế nào ? Theo tôi, quí vị nên chọn con đường đi cùng dân tộc Việt Nam và sử dụng nội lực của toàn dân để chuẩn bị chiến tranh nếu không tránh được. Đó là con đường duy nhất trong tình thế hiện nay, vừa cứu được đất nước ra khỏi bàn tay bá quyền tham lam của Tàu Cộng vừa tạo cho quí vị may ra có thể tồn tại trước cao trào cách mạng dân chủ Hoa Lài đang diễn ra trên toàn thế giới.

Muốn đi theo con đường cùng dân tôc Việt Nam thì quí vị cần thực hiện những điều sau :
:mrgreen: 1.- Lặng lẽ hủy những cuộc họp giao ban giữa ban văn hóa tư tưởng và báo chí hàng tuần:
Hành động này có nghĩa là bước đầu trả tự do thông tin cho người dân, dùng tiếng nói của dân để mở mặt trận truyền thông vạch mặt chỉ tên bọn nội tuyến cho Tàu Cộng trong quí vị và phổ biến cho bọn Tàu Cộng biết lòng yêu nước và sẵn sàng chiến đấu chống quân ngoại xâm của dân Việt.
Thế giới tư bản sử dụng hai đòn bẩy để đốc thúc nền kinh tế. Đó là nhà băng để tạo vốn cho người đầu tư và thị trường chứng khoán để tập trung vốn cho người đầu tư. Nguyên tắc căn bản để cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả là cần tự do thông tin. Chỉ vì lo sợ người dân biết được những lừa phỉnh về chính trị mà quí vị đã độc quyền thông tin gây nên cảnh 1.000 tấn vàng, vốn đầu tư của quốc gia, được người dân đem dấu trong các vách nhà vì không tin tưởng quí vị, và đất nước Việt Nam thuộc loại nghèo nhất thế giới. Kinh tế không phát triển thì quí vị lấy tiền ở đâu để mua vũ khí bảo vệ tổ quốc?

:mrgreen: 2.- Ôm gói nhân quyền lobby quốc hội và chính phủ Mỹ:
Lobby có nghĩa là vận động hành lang trong chính trị, một hoạt động thông thường trong tiến trình chính trị tại các nước tư bản. Gói nhân quyền bao gồm các quyền của con người mà quí vị đã hạ bút ký tại Liên Hiệp Quốc, các điều luật mà quí vị tự đặt ra như điều 4 hiến pháp, điều luật 79, điều luật 88 v.v…trả tự do cho những tù nhân lương tâm, thực thi đa nguyên, đa đảng v.v… Quí vị không muốn đồng hành cùng dân tộc để cùng chống ngoại xâm thì không có gì để nói nếu quí vị muốn đồng hành cùng dân tộc thì quí vị nên có thành tâm trao trả tự do cho toàn dân và cải tổ chính trị hay nói theo thuật ngữ của người cộng sản là sửa lỗi hệ thống. Trước khi làm việc trên thì quí vị nên ôm gói nhân quyền lobby với quốc hội và chính phủ Mỹ.

Hành động này cốt tạo giới hành pháp và lập pháp Mỹ biết rằng quí vị đang muốn cải tổ chính trị theo hướng dân chủ, đang quay lưng với chủ nghĩa cộng sản lỗi thời, đang muốn trở thành một đồng minh thân thiết với Mỹ trong vành đai ngăn chặn tên bá quyền Tàu Cộng đầy nguy hiểm. Gói nhân quyền là điều kiện cho quí vị thương lượng quốc hội Mỹ hủy bỏ luật cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam và cũng là điều kiện để tiến tới một hiệp ước hỗ tương bảo vệ nhau của 2 quốc gia khi bị quốc gia khác xâm phạm và tìm kiếm viện trợ quân sự.

:mrgreen: 3.- Giăng thiên la địa võng trên đất liền để chuẩn bị chiến tranh.
Người lính Việt Nam và người lính Trung Cộng có nhiều điểm khác nhau rất xa. Một bên can trường xông pha chiến trận đầy kinh nghiệm trong cuộc chiến vừa qua. Một bên vào lính để kiếm ăn, sống trong thanh bình một thời gian dài, thiếu kinh nghiệm và hèn nhát (5.000 người lính Tàu bị 100 tên lính Nhật dẫn đi giết mà chẳng có người lính nào dám chạy trốn). Nên khi đụng trận phần thắng nghiêng về Việt Nam nhiều hơn, qua lịch sử cũng như hiện nay. Quân Tàu luôn luôn luôn ở trong thế thượng phong hùng mạnh khi ban đầu, nhưng kết cục là những thảm bại trước tài điều binh khéo léo của người Việt.


Chiến tranh Việt Nam vừa qua là trận chiến với vũ khí hiện đại, đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quí giá cho việc giữ nước trong đó có 2 hai trận đánh mà chúng ta cần phải nghiên cứu sâu để rút những kinh nghiệm khi phòng thủ mặt trận phía bắc nếu bị quân Trung Cộng tấn công. Đó là trận đánh Đồi Thịt Băm (Hamburger Hill ) hay là cao điểm 937 ở thung lũng A Shau, Thừa Thiên và trận đánh Hạ Lào.

Trận đánh Đồi Thịt Băm cho chúng ta biết chiến thuật Chốt Kiềng phối hợp với lực hỗ trợ di động là một chiến thuật phòng thủ tốt có thể sử dụng một lực lượng nhỏ chận đứng được sự tấn công của một lực lượng lớn dù lực lượng tấn công có hỏa lực hùng hậu như Mỹ. Trận đánh Hạ Lào cho chúng ta biết không nên lập những căn cứ to lớn để chặn đường tiến quân của đối phương vì với hỏa lực của chiến tranh hiện nay thì những căn cứ càng to càng dễ bị nghiền nát.

Chiến thuật Chốt Kiềng thường chọn ở vị trí cao để dễ bề ngăn chặn bộ binh tiến công, nhưng lại ở vị trí không thể cản được chiến xa nên phải hỗ trợ thêm chiến thuật Mạng Nhện để thiết lập những Chốt Kiềng bí mật khác dưới lòng đất để chống chiến xa và tấn công bọc hậu hỗ trợ. Địa lý phía bắc nước ta là một vùng đất dễ phòng thủ nếu được nghiên cứu địa thế để lập những vị trí phòng thủ trước thì việc chặn đứng quân Tàu không khó hay ít nhất cũng kéo dài được thời gian và càng kéo dài thời gian thì càng dễ dành được chiến thắng. Giăng thiên la địa võng ở phía bắc để chờ đón quân xâm lăng Tàu là một việc quan trọng hàng đầu của quốc gia, kẻ nào chống lại thì cần trãm trước tấu sau vì nó chính hiệu là tên tình báo của Trung Cộng gài trong bộ chính trị.

Trong thời gian gần đây Tàu cộng đã chuyển hàng ngàn chiến xa áp sát biên giới phía bắc, đã dùng tiền mua đứt được Kampuchia nên chuyện mượn đường đổ quân vào Kampuchia để đánh vào phía nam và tây nguyên nước ta chỉ là thời gian, do đó chúng ta cũng cần giăng thiên la địa võng phía nam và tây nguyên và cũng cần bàn thảo ký với khối Asean một hiệp ước hỗ tương không cho nước khác mượn đường tấn công vào một nước của Asean với các biện pháp chế tài hữu hiệu khi hiệp ước bị xâm phạm.

:mrgreen: 4.- Thanh Toán “Những Đóa Hoa Nở Trong Lòng”:
Khi quân Tàu mở mặt trận 3 mặt giáp công (mặt trận phía bắc. mắt trận phía nam và tây nguyên, đổ bộ bằng đường biển) mà lại có những đóa hoa nở trong lòng đất chúng ta thì phần chiến thắng nghiêng về phía quân Tàu nhiều hơn. Quí vị cần phải bạch hóa tất cả những hồ sơ liên quan đến những đóa hoa nở trong lòng như Bauxite Tây Nguyên, Thuê Đất Thượng Nguồn v.v.. để dẹp trước những đóa hoa đó. Tự Do Ngôn Luận và Lòng Yêu Nước của dân Việt Nam sẽ vạch mặt chỉ tên giùm quí vị những tên tình báo của Trung Cộng đang gài trong bộ chính trị. Các cơ quan tình báo cũng cần hoạt động mạnh ở 2 nước Lào và Kampuchia để đối phó với việc chuyển quân bí mật của Tàu trong 2 nước đó.

:mrgreen: 5.- Thành Lập Các Tiểu Đoàn Tác Chiến Cơ Động Để Đối Phó Với Mặt Trận Đổ Bộ Đường Biển.
Trong thời gian vừa qua truyền thông Tàu cộng thường rêu rao kế hoạch đổ bộ Thanh Hóa để chia Việt Nam ra làm 2 cho dễ dàng dành chiến thắng trên bộ. Chúng rêu rao chỉ cần đánh 31 ngày là chiếm xong Việt Nam để hù dọa. Ý kiến này không thực tế, thiếu kiến thức quân sự hay cố đánh lừa Việt Nam trải rộng quân ở những nơi không cần thiết vì hải quân Trung Cộng chưa đủ khả năng đổ bộ vào đường biển và việc đưa quân qua sông qua biển là một việc làm mà các vị chỉ huy quân sự luôn luôn tránh thực hiện, nhưng để bảo vệ vùng biển dài của mình Việt Nam cần trang bị nhiều tiểu đoàn tác chiến cơ động dọc theo bờ biển để nhanh chóng ứng phó. Ngoài những vũ khí hiện đại như tên lửa phòng thủ bờ biển thì cuối cùng bộ binh vẫn là yếu tố chính để quyết định chiến trường.

:mrgreen: 6.- Trang bị thêm tiểu đỉnh cho hải quân và máy bay tiêm kích cho không quân để chờ đợi trận chiến ở Biển Đông.
Chiếm Biển Đông bằng bạo lực là điều ngu dại nhất của Tàu Cộng nhưng cũng có thể xảy ra vì chúng cần phải thực hiện chiến tranh để hướng nhân dân vào một mục tiêu khác và tạo điều kiện cho đảng cọng sản Trung Quốc tồn tại vững vàng. Hồ Cẩm Đào nói còn quá sớm để đưa vấn đề Biển Đông ra bàn thảo ở hội nghị Asean tại Nam Vang là chờ cuộc huấn luyện không quân chúng bay lên hạ xuống chiếc hàng không mẫu hạm cũ kỹ sửa lại thành công xong rồi chúng sẽ đưa toàn bộ hải quân diễu võ giương oai trên Biển Đông để thực hiện chiến thuật tằm ăn dâu trên biển lấn chiếm từ từ từng hải đảo rồi dừng lại, rồi lấn chiếm từ từ cho đến toàn bộ Biển Đông.
Chiến tranh qui ước trên Biển Đông xảy ra thì Tàu Cộng nắm chắc phần thất bại vì chiếm được đảo nhưng không giữ được đảo do tất cả các đảo đều nằm trong tầm kiểm soát của không quân Việt Nam (xem nhận định của các báo ở Hồng Kông). Chỉ cần không quân oanh tạc, hải quân trên các tiểu đỉnh đổ bộ là việc lấy lại các đảo không khó khăn. Trận chiến trên Biển Đông xảy ra là một cơ hội tốt cho Việt Nam dành lại những phần đất và biển đảo đã mất. Việt Nam đã phối hợp với Phi Luật Tân để cùng hoạt động về hải quân trên Biển Đông, nhưng cũng cần liên hệ phối hợp thêm về không quân để làm chủ vùng biển nằm trong tầm hoạt động của không quân. Cần hung dữ và chiếm lại khi bị mất một đảo, nếu không chiếm lại được đảo đã mất thì sẽ mất toàn bộ Biển Đông. Tên nào ngăn cản thì chính là tên tình báo Tàu nằm trong bộ chính trị.

:mrgreen: 7.- Malacca là tử huyệt của Trung Cộng.
Tử huyệt của Trung Cộng không nằm trên Việt Nam và Biển Đông mà nằm tại eo biển Malacca, dài 500 miles hẹp nhất là 1.5 mile, nơi cứ 2 chiếc tàu đi qua có 1 chiếc là của Trung Cộng. Một cuộc thương lượng công khai cần phải có giữa các nước Asean hoặc giữa Việt Nam và 3 nước đang kiểm soát eo biển Malacca là Mã Lai, Nam Dương và Singapore vì 3 nước này cũng đang có những quyền lợi trên Biển Đông mà Trung Cộng đang rắp tâm cưỡng đoạt, nên một hiệp ước hỗ tương bảo vệ nhau (và nếu cần thì sẽ đóng eo biển Malacca đối với nước nào tấn công 1 nước của Asean) cần được hình thành để răn đe và đối phó chiến thuật chia rẽ Asean để cai trị của Trung Cộng. Chúng đang đem tiền mua chuộc Nam Dương và Campuchia nhưng chỉ cần 1 trong 3 nước đang kiểm soát eo biển Malacca ký thỏa ước với Việt Nam thì Trung Cộng phải dừng tay. Các bạn nghĩ thế nào khi chiến tranh trên bộ và trên biển giữa Việt Nam và Trung Cộng xãy ra mà các tàu nhiên liệu và thực phẩm của Trung Cộng không đi qua được eo biển Malacca nên càng kéo dài chiến tranh thì Trung Cộng càng đi vào con đường chiến bại vì cả nước Trung Cộng đói rã người không có thực phẩm, dầu chạy xe và chạy các máy móc khác.

:mrgreen: 8.- Bí mật lên kế hoạch đánh chiếm Quảng Đông.
Tàu Cộng là một tên khổng lồ to xác tham ăn nhưng rất nhiều bệnh. Bốn phía của chúng đều thọ địch. Tây Tạng,Tân Cương sẽ nổi lên dành độc lập bất cứ ngày nào. Nội Mông là một lò lửa đang âm ỉ cháy. Hồng Kông và Đài Loan là những ngọn đuốc tự do trong tâm hồn người Tàu. Chiến tranh biên giới với Ấn Độ chưa giải quyết xong. Hố ngăn cách giàu nghèo mỗi ngày mỗi sâu rộng, lòng căm phẫn của dân nghèo đang dâng cao… Đập Tam Hiệp sắp tan. Kinh tế suy thoái. Thất nghiệp dâng cao. Các công ty sắp phá sản . Bong bóng địa ốc sắp vỡ. Cách mạng hoa lài có thể sắp xảy ra v.v….

Nếu cơ may nào đó Tàu Cộng sụp đổ do cách mạng hoa lài hay nội bộ thanh toán nhau thì quí vị cũng nên cùng Tân Cương, Tây Tạng, Ấn Độ, Nội Mông vùng lên đánh chiếm Quảng Đông để thương lượng dành lại những vùng đất vùng biển mà bọn Tàu Cộng đã cướp, nên quí vị cũng cần có một kế hoạch trước.

:mrgreen: 9.- Gởi nhiều phái đoàn kêu gọi hỗ trợ khi có chiến tranh và lo dự trữ lương thực.
Sự trổi dậy của một nước Đại Hán hung hãn là mối lo của toàn thế giới nên sẽ có nhiều nước muốn hỗ trợ Việt Nam để chặn đứng sự bành trướng bá quyền của Tàu Cộng. Nhân cơ hội Tàu Cộng đang leo thang đe dọa lấn chiếm trên Biển Đông, Việt Nam cần gởi nhiều phái đoàn đi dến từng quốc gia như Mỹ, Nhật, Úc, Nam Hàn, Ấn Độ, Anh, Pháp v.v… để thương lượng ký những văn bản với các nước hứa thuận hỗ trợ một số lượng quân cụ và lương thực cần thiết trong tương lai khi Việt Nam lâm vào chiến tranh. Số lượng đạt được một ít từ một nước nhưng gom lại thì có thể đủ để tham chiến lâu dài. Song song với việc kêu gọi các nước viện trợ cũng cần tự dự trữ lương thực trước.

:mrgreen: 10.- Con đường ngắn nhất là con đường Miến Điện đang đi.
Nhưng Việt Nam không thể thực hiện được như Miến Điện là quay lưng ngay tức khắc với tên Đại Hán vì trong quí vị có quá nhiều kẻ nội tuyến của Tàu và nhiều tên thuộc phe bảo thủ. Muốn đi con đường của Miến Điện thì phải thanh toán nội thù bằng đảo chánh, nếu không làm được thì làm công khai bằng cách lập hội nghị Diên Hồng để bịt miệng những tên nội tuyến chủ bại. Trước khi làm công khai cũng cần giữ một vùng an toàn để làm căn cứ kêu gọi thực hiện.

- Quí vị đừng nghĩ rằng dựa vào Tàu Cộng sẽ được trường cửu,
- đừng nghĩ rằng càng nhân nhượng thì Tàu Cộng ngừng tay không chiếm nước,
- đừng nghĩ rằng càng lừa phỉnh càng thanh toán đối lập càng kiềm chế toàn dân tộc thì sẽ được yên ổn đề cướp bóc suốt đời,
- đừng cho rằng chẳng ai đủ khả năng hỏi tội quí vị khi quí vị đem đất đai tổ tiên dâng cho giặc Tàu để đổi lấy chỗ ngồi cai trị nhân dân.


200 năm trước ông tổ của quí vị là Các Mác đã tiên tri rằng chính phủ cộng sản sẽ tiến tới chính phủ tự tiêu. Điều tiên đoán của y đã xảy ra cho Liên xô và Đông Âu thì lẽ nào không xảy ra cho Tàu Cộng và CS Việt Nam. Khi đó người ngồi xử tội bán nước của quí vị sẽ là những người hiện đang ngồi bên cạnh quí vị.

No comments:

Post a Comment