Monday, May 19, 2014

TRẢ LẠI SỰ THẬT CHO LỊCH SỬ VỀ VIỆC SƯ ĐOÀN 3 BỘ BINH LUI QUÂN TẠI QUẢNG TRỊ VÀO MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972

TRẢ LẠI SỰ THẬT CHO LỊCH SỬ VỀ VIỆC SƯ ĐOÀN 3 BỘ BINH LUI QUÂN TẠI QUẢNG TRỊ VÀO MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972

Tác giả: Thế Huy - Paris

Đây là huy hiệu cũ của Sư Đoàn 3 Bộ Binh được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1971 tại Quảng Trị

Trên huy hiệu có chữ Bến Hải do cựu Tướng Vũ Văn Giai chỉ huy và đã tan hàng vào ngày 2 tháng 4 năm 1972, sau 6 tháng thành lập.

Ngày 9 tháng 6 năm 1972, đơn vị được đưa về tái phối trí tại Quảng Nam, nhận bàn giao lại căn cứ Hòa Khánh và do cựu Tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh. Sư đoàn 3 Bộ Binh mang huy hiệu mới.

Năm nay, tháng 7/2010 trong dịp nghỉ hè tại Mỹ, chúng tôi gặp một số sĩ quan Sư Đoàn 3 Bộ Binh cư ngụ tại vùng Nam California. Trong cuộc trao đổi, anh em nhắc lại kỷ niệm của những ngày binh lửa, trong đó có cuộc lui quân của các đơn vị thuộc SĐ3 trên "Đại Lộ Kinh Hoàng" năm 1972. Sự kiện đó đã khơi lại trong tôi nỗi bẽ bàng, đắng cay về một trận đánh oan khiên tới độ phi lý mà các đơn vị trú phòng tại đây đã phải gánh chịu và đấy cũng là những băn khoăn, thắc mắc nằm sâu trong ký ức tôi từ hơn 38 năm rưỡi qua.

Tưởng cũng phải nói ngay rằng: Khi cuộc lui quân để tái phối trí này xảy ra, tôi đang làm việc tại Ban Nghiên Cứu và Kế Hoạch Đặc Biệt, dưới quyền Tr/Tá Phạm Đức Lợi (1) thuộc Phân Khối Không Ảnh/ Phòng 2/ Bộ Tổng Tham Mưu. Nhiệm vụ của chúng tôi là ghi nhận tất cả mọi diễn biến, mọi đổi thay trên toàn lãnh thổ Miền Bắc và các hoạt động địch trên Đường Mòn HCM.

Trung bình mỗi tuần, chúng tôi có hai hoặc ba nhiệm ảnh do Hoa Kỳ cung cấp. Chúng tôi xác định là Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm và Đại Tướng Viên nắm rất rõ tình hình và biết chắc rằng Việt cộng sẽ tấn công qua vùng Phi Quân Sự. Ba vị lãnh đạo cao nhất đã được chúng tôi đệ trình những tấm Slides được phóng lớn với đầy đủ chi tiết từ cuối năm 1971 cho đến ngày xảy ra trận chiến vào cuối tháng 3/72 vì từ mùa thu 1971, Việt cộng đã ráo riết đưa hàng ngàn xe ủi đất và dân công để làm một lộ trình mới từ đường mòn HCM đi về hướng đông nam đến tận vùng Phi Quân Sự. Con đường này đã được hoàn tất vào khoảng tháng 1/72.

Những tin tức tình báo kỹ thuật cũng xác sự kiện đó. VC còn thiết lập các vị trí hỏa tiễn SAM, pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly ngay cạnh vùng Bắc - Phi Quân Sự. Điều đó có nghĩa là các căn cứ hỏa lực của ta tại vùng Nam Bến Hải đều nằm trong tầm pháo của Việt cộng.

Mỗi chiều thứ sáu, Đại Tá Phạm Ngọc Thiệp, Trưởng P2/TTM đều thuyết trình trước ba vị lãnh đạo quân sự cao nhất của VNCH về tình hình Quân Sự tại tòa nhà chính Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng những hoạt động địch tại phía Bắc vùng Phi Quân Sự vẫn tiếp tục. Hơn thế nữa, khi VC làm tiếp đoạn đường này xuyên qua sông Bến Hải vào tận vùng Phi Quân Sự mà vẫn không thấy bên ta động tĩnh gì, mặc dù nhiều lần chúng tôi đã xin Không Quân Hoa Kỳ oanh kích.

Sự bỏ ngõ và thái độ khó hiểu của các giới chức Việt / Mỹ lúc đó đã làm cho chúng tôi hết sức kinh ngạc.

I/ Mạn đàm với Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh

Cuộc chuyện trò với các chiến hữu Sư Đoàn 3 khiến tôi nghĩ đến việc tìm hiểu thêm để viết về những điều đã khiến tôi bận tâm và băn khoăn từ mấy chục năm qua. Bởi vậy, tôi ngỏ ý muốn gặp Tướng Giai để hiểu biết thêm về những điều mà tôi nghĩ rằng chỉ có ông mới trả lời chính xác được. Bốn ngày sau, vào trung tuần tháng 7/2010, tôi đến gặp Tướng Giai tại tư gia của ông cũng ở Nam California. Đi cùng với tôi là Tr/tá Nguyễn Tri Tấn, cựu Tr/đoàn phó Trung đoàn 2/SĐ3. Khi VC tấn công qua sông Bến Hải, ông Tấn là Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3/2/SĐ3. Ông là người rất gần gũi với Tướng Giai vì đã cùng tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào trước đây.

Vì làm việc chung với Mỹ nên chúng tôi thường sử dụng các tên ngoại quốc mà người Mỹ đã đặt cho các căn cứ hỏa lực tại vùng nam vĩ tuyến 17. Do đó, chúng tôi muốn biết là khi Việt cộng tấn công, các căn cứ này do Hoa Kỳ hay Việt Nam trấn giữ, thì Tướng Giai cho hay là hoàn toàn do VNCH trách nhiệm.

Về việc Việt cộng sửa soạn tấn công, Tướng Giai tiết lộ rằng ông đã được cố vấn Mỹ báo trước, nhưng trong cương vị của mình, ông không thể làm gì hơn được. Khi cuộc chiến xảy ra, các cố vấn Mỹ khuyên ông lui quân để phòng thủ ở tuyến sau, vì theo họ, lực lượng trú phòng của ta không thể đương cự được. Được hỏi về dư luận cho rằng Tướng Hoàng Xuân Lãm ra khẩu lệnh cho ông rút quân, nhưng sau đó Tướng Lãm đã phủ nhận để tránh trách nhiệm; Tướng Giai trả lời rằng - điều đó không đúng; ngược lại, ông Lãm muốn SĐ3B giữ nguyên vị trí, dù áp lực và các trận địa pháo của địch đã phá vỡ nhiều phòng tuyến khiến các đơn vị phòng thủ hoang mang và vô cùng hoảng hốt.

Tướng Giai cũng cho chúng tôi biết thêm là - ngay từ đầu, Hoa Kỳ đã chống lại việc thành lập Sư Đoàn 3 vì họ đã chuẩn bị cho việc rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam và không chấp nhận việc tăng quân viện cho VNCH. Sư Đoàn 3/Bộ Binh ra đời hoàn toàn do quyết định của Bộ TTM/QLVNCH. Do đó, Mỹ hầu như bỏ mặc cho phía Việt Nam xoay trở với những khó khăn tại vùng địa đầu giới tuyến do Sư Đoàn này đảm trách. Sự kiện trên khiến tôi liên tưởng tới cái chết của Đại Tá Lê Đức Đạt, TL/SĐ23 vì ông này không được cảm tình của John Paul Vaunn, người cố vấn Mỹ "rất đặc biệt" tại Quân Đoàn 2 lúc đó.

Trả lời câu hỏi là - trước khi Việt cộng mở cuộc tấn công và với tình hình sôi động như vậy, SĐ3 có được tăng cường đặc biệt bằng các đơn vị tổng trừ bị hay không; Tướng Giai xác nhận là các đơn vị TQLC và BĐQ thì đã được tăng phái cho SĐ3 từ khá lâu. Riêng trong những ngày trước khi cuộc đánh đẫm máu xảy ra thì không có thêm lực lượng nào khác.

Ngoài ra, Cựu TL/SĐ3 còn cho chúng tôi hay rằng: Trước đó một tháng, Tướng Lavelle, Tư Lệnh Không Quân Mỹ tại Thái Bình Dương vì ra lệnh cho Không Quân Mỹ bắn cháy một số xe tăng của Việt cộng nên ông ta đã bị Mỹ cách chức, lột lon và truy tố!

Cũng trong cuộc mạn đàm này, chúng tôi được biết thêm là song song với những biến chuyển của tình hình Quảng Trị, Mỹ và Việt cộng vẫn tiếp tục gặp gỡ nhau trên bàn Hội Nghị Paris và từ trước năm 1971, hai bên đã thỏa thuận về việc cấm mọi hoạt động của các phi cơ quân sự Việt - Mỹ tại vùng Bắc sông Bến Hải. Sự kiện này khiến chúng tôi hiểu tại sao những bản "Đề nghị mục tiêu oanh kích" mà chúng tôi gửi cho BTL/MACV của Mỹ ở Sài Gòn, vào thời điểm đó, đã không được thực hiện.

Đấy cũng là lý do khiến KQ/VNCH từ Đà Nẵng không được phép tấn công và phá hủy ngay từ khi Việt cộng bắt đầu mở lộ trình mới từ đường mòn HCM dẫn đến vùng Bến Hải hầu tiếp cận các căn cứ hỏa lực và các đơn vị phòng thủ của VNCH tại phía nam của vùng Phi Quân Sự. Rõ ràng là Hoa Kỳ đã dọn đường và dành mọi điều kiện thuận lợi cho Việt cộng tấn công VNCH mà trước đó họ vẫn ca tụng là "Tiền đồn chống Cộng" của Thế Giới Tự Do.

Tổng Thống Thiệu, Đại Tá Viên dư biết các sự kiện đó, nhưng tại sao các ông không tìm một biện pháp nào tương xứng để phòng bị hoặc đối phó? Phải chăng VNCH đã được lãnh đạo bởi những người không đủ đảm lược và tầm vóc? Tướng Giai còn cho chúng tôi hay rằng cũng vào thời điểm này, Tổng Thống Thiệu tuyên bố ngụ ý rằng đây sẽ là mồ chôn của Việt cộng.

Chúng tôi hỏi là: Về tương quan lực lượng giữa ta và địch trước khi Việt cộng tấn công vào vùng hỏa tuyến, niên trưởng có nghĩ rằng việc sử dụng một sư đoàn tân lập với một quân số phức tạp như SĐ3 Bộ Binh để đương đầu với một lực lượng Việt cộng có một quân số nhiều lần lớn hơn và được tăng, pháo yểm trợ mạnh mẽ - là một sai lầm nghiêm trọng của Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn hay không?

Tướng Giai không trả lời, ông mỉm cười, một nụ cười héo hon, chua xót khiến chúng tôi chạnh lòng và xúc động. Những thắc mắc của chúng tôi hầu như đã được giải tỏa. Hơn nữa, chúng tôi không muốn khơi lại vết thương lòng của một vị tướng vừa được vinh thăng tại mặt trận, nhưng chỉ ít lâu sau đó bị tước đoạt binh quyền và khi Việt cộng chiếm được miền Nam, ông lại bị Việt cộng đọa đầy thêm 13 năm nữa. Ông hiện sống âm thầm, ẩn dật và khép kín trong một chung cư dành cho người già cùng người vợ yếu đau và chính ông, sức khỏe cũng không được khả quan lắm.

Có lẽ vì định mệnh, khi BTL/SĐ3BB di chuyển về căn cứ Hòa Khánh tại phía nam đèo Hải Vân, gần Ngã Ba Huế; tôi được thuyên chuyển từ Sài Gòn ra tăng cường cho P2/SĐ3. Ngay sau khi trình diện Ch/Tướng Hinh TL/SĐ3, tôi được gửi ra BTL tiền phương đóng tại Hương An và đi bay với các toán trực thăng Mỹ trong các cuộc hành quân "lấn đất giành dân" trước khi bản Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27/1/1973.

Trong gần ba năm, tôi đã chứng kiến điều kiện chiến đấu khó khăn của các đơn vị tiền đồn và tôi hiểu rằng Miền Nam sẽ mất vào bất cứ lúc nào.

Tiếp liệu và đạn dược bị hạn chế tối đa. Một viên đạn bắn đi là kho đạn trung ương hao đi một ít vì không được bổ sung. Nguyên tắc "một đổi một" được quy định trong Hiệp Định Paris không được phía Hoa Kỳ thực hiện. Điều đó có nghĩa là: VNCH là một con bệnh mắc chứng nan y nằm chờ chết! Chiến đấu trong hoàn cảnh đó là chiến đấu trong nỗi tuyệt vọng. Ai chịu trách nhiệm về việc này?

Tại Ngã Ba Huế, tôi chứng kiến cảnh dân quân VNCH từ Huế vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng trong những ngày 21 & 22/3/75. Đúng một tuần lễ sau, lúc 00 giờ 20 ngày 29/3/75, tôi cũng là một trong những người sau cùng rời căn cứ Hòa Khánh bằng đường bộ sau khi Tướng Hinh và một số sĩ quan cao cấp nhất có mặt tại BTL/SĐ3 lên trực thăng bay ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi gần Đà Nẵng. Hai mươi mốt ngày sau, tôi tìm về được với gia đình và người thân ở Sài Gòn đúng 10 ngày trước khi thủ đô của VNCH rơi vào tay CS.

II/ Phân tích và nhận định về cuộc lui quân để tái phối trí của SĐ3BB khỏi Quảng Trị năm 1972:

Chúng tôi không nhắc lại chi tiết của các trận đánh vì trong suốt mấy chục năm qua, nhiều tác giả tham dự trong biến cố này đã viết khá đầy đủ. Hơn nữa, đó cũng không phải là chủ đích của bài viết này.

Theo quan niệm của chúng tôi thì sự thành công hay thất bại, dù huy hoàng hay chua xót tới đâu, chúng ta cũng có thể phân tích và nhận định một cách khách quan để từ đấy rút ra những kinh nghiệm hữu ích cho các thế hệ tương lai, nhất là những thất bại, để con cháu chúng ta không rơi vào vết xe đau thương và bẽ bàng của ông cha chúng.

Để nhìn vấn đề một cách trung thực và chính xác hơn, chúng ta phải nhìn từ "góc cạnh chính trị" của cuộc chiến VN vào thời điểm đó. Tuy nhiên, trên bình diện thuần túy quân sự, qua việc thất bại ấy, chúng ta ghi nhận những khuyết điểm sau:

1. Thành phần:

Thành phần chủ lực của SĐ3 là Tr/đoàn 2 lấy ra từ SĐ1. Đặc biệt, Tr/đoàn này có tới 5 tiểu đoàn. Khi được chuyển qua SĐ3 thì 3 tiểu đoàn ở lại với Tr/Đ2. Đây là một đơn vị dạn dày tác chiến và nổi danh từ lâu tại vùng giới tuyến.
Nhưng hai trung đoàn 56 và 57 thì mỗi Trung đoàn có một tiểu đoàn còn lại của Tr/ Đ2 trước kia và một tiểu đoàn lấy ra từ SĐ2BBB; số còn lại là các tân binh quân dịch, địa phương quân, nghĩa quân và lao công đào binh chưa có kinh nghiệm chiến trường mà đột nhiên phải đối mặt với một trận đánh bốc lửa có cả xe tăng, pháo và các loại vũ khí nặng của Việt cộng đánh phủ đầu thì việc thất trận không làm ai ngạc nhiên. Vả lại, chúng ta đừng quên rằng SĐ3 và các đơn vị tăng phái đã phải đối đầu với một lực lượng địch đông gấp 3 lần về quân số và chiến trường đã được Việt cộng sửa soạn kỹ từ nhiều tháng trước.

2. Tinh thần và khả năng chiến đấu:

Chỉ ba ngày sau khi Việt cộng mở trận đánh, căn cứ Holcomb của TĐ8/TQLC đã bị Việt cộng tràn ngập. Ngay sau đó, việc đầu hàng của Tr/tá Đính, Tr/đoàn trưởng Tr/đoàn 56 tại căn cứ Tân Lâm cùng 1500 binh sĩ dưới quyền đã làm chấn động tinh thần quân nhân các cấp, khiến nó trở thành một phản ứng dây chuyền trong những tuần lễ tiếp theo đối với các đơn vị khác. Hiện tượng này đã được lập lại trong cuộc di tản ồ ạt vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4/75 tại Miền Trung trước khi mất nước.

Tóm lại, với một tương quan lực lượng như thế và với tình hình phức tạp từ trung ương đến địa phương như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng bất cứ một tướng lãnh nào, dù tài giỏi đến mấy, cũng khó có thể thay đổi được tình thế bởi nó đã vượt ngoài tầm kiểm soát của các cấp chỉ huy.

Các đơn vị tăng phái nhiều khi nhận lệnh theo hệ thống hàng dọc từ đơn vị mình chứ không hoàn toàn nằm dưới sự điều động của Tướng Giai. Với quân số như thế, cuộc hành quân này trở thành một cuộc hành quân cấp quân đoàn, vượt khỏi khả năng của Tướng Giai vừa được vinh thăng Chuẩn Tướng sau cuộc hành quân Hạ Lào 1971, nhất là nó lại xảy ra đúng vào lúc mà tinh thần quân nhân các cấp đang bị hoang mang, giao động hết mức.

3. Các yếu tố chính trị liên quan đến chiến cuộc tại Miền Nam:

Trước tình hình hết sức xáo trộn tại Miền Nam sau ngay quân đội đảo chính lật đổ chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa, người Mỹ đến Việt Nam gọi là để giúp VNCH trong cuộc chiến đấu chống Cộng và họ hy vọng rằng chiến tranh sẽ chấm dứt trong một thời gian ngắn bởi họ tin tưởng hầu như tuyệt đối vào hiệu năng của võ khí.
Quân Đội Mỹ đã chiến thắng hai cuộc Đại Chiến Thế Giới và đã thắng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, đè bẹp đạo quân Trung Cộng và Bắc Hàn năm 1953 nên người Mỹ nghĩ rằng sẽ dễ dàng giải quyết cuộc chiến tại Việt Nam.

Những người làm sách lược và chỉ huy quân đội Hoa Kỳ không hiểu được bản chất và sách lược của cuộc chiến tranh du kích là kéo dài thời gian làm cho đối phương mất kiên nhẫn, mệt mỏi, chán nản và căng thẳng thần kinh khiến đối thủ phải bỏ cuộc. Với phương thức đánh lén, đánh trộm, họ có thể tấn công đối thủ vào những lúc bất ngờ và thuận lợi nhất nên dễ đạt được kết quả mà chỉ cần rất ít người tham chiến. Giả dụ, nếu thua họ sẽ dễ dàng trà trộn vào đám đông quần chúng, hay trốn vào rừng hoặc chạy qua biên giới các nước bên cạnh. Qua hình thái chiến tranh ấy, Việt cộng đã làm cho người Mỹ chán nản vì bị thiệt hại khá nhiều về sinh mạng cũng như về ngân sách mà kết quả đạt được không như dự tính.

Bản chất của người Mỹ là mau chán, tiết kiệm thời gian. Làm việc gì họ cũng đặt nặng vấn đề thời gian và năng suất, bởi vậy cuối năm 1964 họ đổ quân vào Việt Nam và cuối năm 1967 họ đã nghĩ đến việc rút quân. Việc quân Đội Hoa Kỳ án binh bất động khi VC tấn công QL/VNCH trong những ngày đầu của Tết Mậu Thân 1968 đã một phần chứng minh điều đó.

Cá nhân chúng tôi không tin rằng các cơ quan tình báo Mỹ không biết gì về cuộc Tổng Công Kích này trước khi nó xảy ra. Là một nước cổ súy cho tự do và dân chủ, nhưng những người lãnh đạo Hoa Kỳ ít quan tâm đến tâm lý, lịch sử, truyền thống và văn hóa của người bản xứ. Người Mỹ cũng không muốn hiểu rằng sự có mặt của quân đội Mỹ ở Việt Nam đã tạo cơ hội cho khối Cộng Sản Quốc Tế mở rộng mặt trận tuyên truyền lừa gạt dư luận thế giới rằng Việt Nam đánh VNCH và Mỹ là để giải phóng Miền Nam; dù thực chất đó là cuộc xâm lăng nhằm mở rộng Khối Cộng Sản Quốc Tế vì cuộc chiến Việt Nam đã bắt đầu 7 năm trước khi quân đội Mỹ đến Việt Nam.

Mỗi năm Cộng Sản Quốc Tế đã chi ra hàng trăm triệu Mỹ kim về lãnh vực đó (tuyên truyền lừa gạt dư luận thế giới rằng Việt Nam đánh VNCH và Mỹ là để giải phóng Miền Nam) và kết quả là dư luận thế giới nghiêng về phía Việt cộng. Thêm vào, các cuộc biểu tình chống Mỹ xảy ra tại khắp nơi trên thế giới và ngay tại nước Mỹ do các thành phần phản chiến và thiên tả Mỹ chủ trương. Điều đó mặc nhiên bất lợi cho cả Mỹ lẫn VNCH.

Nước Mỹ mỗi tháng tiếp nhận hàng trăm quan tài, hàng ngàn thương binh trở về từ một nước xa xôi, không liên hệ gì đến đời sống hàng ngày của họ trong khi chi phí quốc phòng mỗi năm một tăng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Đã thế, họ còn bị cả thế giới lên án thì việc chống chiến tranh cũng là một phản ứng dễ hiểu và tự nhiên.

Hơn nữa, phe đối lập tại Thượng và Hạ Viện Mỹ đả kích chính phủ để kiểm phiếu trong các mùa bầu cử cũng là một yếu tố khiến Mỹ muốn rút khỏi Việt Nam.

Được sự viện trợ và thúc đẩy của cộng sản Quốc Tế, Việt cộng ngày càng mở những trận đánh quy mô hơn và tổn thất của mỗi bên ngày một lớn. Sinh mạng con người đối với cộng sản chẳng nghĩa lý gì, nhưng sinh mạng người lính Mỹ khiến gia đình họ phải lo lắng nên họ đòi chính phủ Hoa Kỳ phải chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá để chồng con của họ được lành lặn trở về trước khi trở thành quá trễ.

4. Mục tiêu của chính phủ Hoa Kỳ khi tham chiến tại Việt Nam:

Là một quốc gia giàu mạnh với tất cả các cơ cấu hạ tầng vĩ đại và tối tân, do đó không bao giờ Hoa Kỳ muốn chiến tranh xảy ra ngay trên lãnh thổ của mình vì sự thiệt hại về tài sản cũng như về nhân mạng sẽ vô cùng to lớn. Đó là lý do khiến Hoa Kỳ tham dự vào hai cuộc chiến ở phía bên kia bán cầu và ở Cao Ly.

Sau Thế Chiến Thứ Hai, khối Cộng Sản Quốc Tế lớn mạnh và chủ trương phát động cuộc chiến tranh xâm lấn, khiến Hoa Kỳ phải áp dụng sách lược bao vây để chận đứng. Với cương vị đứng đầu phe tư bản và thế giới tự do, Mỹ viện trợ cho các nước có chiến tranh bằng chính ngân sách của mình để phe thân Mỹ thắng hoặc nắm được ưu thế, chứ không nhằm biến các nước này thành thuộc địa như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đã làm từ cuối thế kỷ 19.

Riêng tại Việt Nam, trong cuộc chiến vừa qua, Hoa Kỳ muốn dùng VNCH như một bức tường để ngăn chận Cộng Sản Quốc Tế bành trướng về phía Đông Nam Á vì theo quan điểm của Mỹ lúc ấy, họ cho rằng nếu VNCH sụp đổ thì các nước lân bang của Việt Nam sẽ dần dần rơi vào quỹ đạo của cộng sản. VNCH không còn một lựa chọn nào khác. Tuy nhiên, việc Hoa K ỳ gửi quân sang Việt Nam là một điều thất sách như đã được nói đến ở trên.

5. Lý do khiến Mỹ muốn rút quân ra khỏi Việt Nam:

Ngoài nguyên nhân là phản ứng bất lợi của quần chúng, chính phủ Mỹ còn nghĩ rằng nếu dùng ưu thế về võ khí để thắng trong cuộc chiến Việt Nam thì Mỹ lại phải đương đầu trực tiếp với Trung Cộng. Lúc ấy điểm nóng của chiến tranh sẽ là vùng biên giới Việt - Trung. Điều đó nhất định không phải là điều Hoa Kỳ mong muốn. Hơn nữa, hơn ai hết, bằng những hình ảnh chụp bằng phi cơ U2 bay trên thượng tầng khí quyển và không ảnh chụp từ vệ tinh, Hoa Kỳ biết rất rõ ràng tại biên giới giữa Liên Bang Xô Viết và Trung Cộng, mỗi bên đều dàn trải hơn 20 sư đoàn sẵn sàng tác chiến vì sự xung đột về ý thức hệ và vì cả hai đều muốn cầm đầu khối cộng Sản Quốc Tế. Đấy cũng là động lực thúc đẩy Mỹ làm thân với Trung cộng và mượn tay Trung cộng ngăn chận Nga mở rộng ảnh hưởng về phía nam; vì vào thời điểm ấy, tiềm lực quân sự của Trung cộng chưa thể là đối thủ và là mối bận tâm hàng đầu của Mỹ.

Qua chiến lược đó, VNCH bắt buộc trở thành vật hy sinh để tế thần, cùng chung số phận với Đài Loan bị đẩy ra khỏi các tổ chức quốc tế. Đó là kết quả của chính sách "ngoại giao bóng bàn" của Henry Kissenger và Richard Nixon. Tình nghĩa đồng minh với VNCH và Đài Loan chấm dứt! VNCH bị bức tử.

Hai mươi năm sau, Liên Bang Xô Viết và khối Cộng Sản Đông Âu sụp đổ. Trung Cộng mỗi ngày một lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự và qua những biến cố về Biển Đông từ hơn 10 năm qua, trở thành mối lo hàng đầu của Mỹ. Trong bối cảnh ấy, Hoa Kỳ lại tìm cách để làm thân với Việt cộng để tìm một chỗ đứng tại vùng Đông Nam Á châu, hầu cân bằng thế lực tại khu vực này của thế giới.

III/ Kết luận:

Nhiều người trách Mỹ phản bội VNCH. Họ có thể đúng nếu trên lãnh vực bang giao quốc tế buộc tất cả các nước trên thế giới hành sử theo nguyên tắc: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Tiếc rằng, điều đó sẽ không bao giờ trở thành sự thật như một quy ước bắt mọi người phải tôn trọng, nên mỗi quốc gia đều làm những gì có lợi nhất cho mình. Hơn ai hết, Hoa Kỳ đã từ lâu theo đuổi chủ trương ấy.

Tôi không nhớ tên một nhà lãnh đạo nào đó của Hoa Kỳ đã thẳng thắn xác định ngụ ý rằng Hoa Kỳ không có Bạn, cũng không có Thù, chỉ có quyền lợi của Hoa Kỳ là trên hết. Cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc một cách đau thương, đầy nước mắt và cuộc lui quân của SĐ3BB tại Vùng Hỏa Tuyến năm 1972 là bước khởi đầu cho nỗi đắng cay và đọa đầy chung của cả dân tộc.

Khi chính trị chen vào bất cứ lãnh vực nào thì mọi lý lẽ và đạo đức phải đội nón ra đi!

Xin một phút mặc niệm cho tất cả những người đã nằm xuống vì LÝ TƯỞNG TỰ DO và chúng tôi nghiêng mình trước nỗi thống khổ của những chiến hữu đã bị đọa đầy, khổ nhục sau cuộc chiến đấu "oan khiên nhưng hào hùng và gian khổ" để bảo vệ Đất Nước.

THẾ HUY, Paris
Viết xong tại California ngày 19/7/2010

Ghi chú: (1) Trung Tá Phạm Đức Lợi tức là thi sĩ Mạc Ly Châu trong Hội Văn Nghệ Quân Đội, đã tự sát tại nhà riêng ngày 30/4/75 khi VNCH rơi vào tay cộng Sản.

Lời Như Thương:

NT được sự đồng ý của tác giả THẾ HUY và bài viết nhận được từ một người lính thuộc SĐ3BB: LÊ BỘ BINH, NT xin post bài viết lên trang Web U MINH CỐC.

No comments:

Post a Comment